Bí ẩn Tử vi và số phận đặc biệt của bà Trần Lệ Xuân

Suy ngẫm về Số Phận đặc biệt của bà Trần Lệ Xuân nhân bài phỏng vấn của ông Ngô Đình Quỳnh với đài BBC Việt Ngữ.
Ông bà Ngô Đình Nhu (ảnh: Pictures From History/Universal Images Group via Getty Images)

BBC Việt Ngữ ngày 21 Tháng Ba 2023 đã có một bài viết đặc biệt về cuộc phỏng vấn ông Ngô Đình Quỳnh, thứ nam của ông bà Ngô Đình Nhu, kể lại ký ức về cha mẹ của ông và cuộc đảo chính Tháng Mười Một 1963.

Trong cuộc nói chuyện với nhà báo Phạm Cao Phong, ông Quỳnh đã hé lộ những điều bí mật về vai trò của mẹ ông như một thiên thần hộ mệnh cho cha và bác của ông trong cuộc đảo chính 1960 bằng một tinh thần thép và sự sáng suốt nhận định tình hình thực tế lúc đó. Chính nhờ sự quyết liệt của bà Nhu đã làm thất bại cuộc đảo chính năm 1960 của đám tướng lĩnh.

Dù có nhiều lời nói gây sóng gió trên chính trường nhưng bà Nhu đóng một vai trò rất quan trọng trong Dinh Gia Long và thực sự có khả năng lật ngược thế cờ tưởng chừng không thể trong giờ phút sinh tử của chế độ VNCH non trẻ. Nhưng ba năm sau đó, Tháng Mười Một 1963, bà và con gái Ngô Đình Lệ Thủy công du Hoa kỳ theo một lời mời và thảm kịch đã xảy ra như những gì mà lịch sử ghi lại. Một thời Vàng Son của Nam Việt Nam đã kết thúc cùng với tấn bi kịch của gia tộc Ngô Đình danh tiếng.

Đại gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm (Getty Images)

Theo lời của ông Quỳnh, ông tin rằng có những thế lực hắc ám quốc tế đã cố tách mẹ ông rời xa cha ông và bác ông trong cuộc đảo chính 1963. Bởi lẽ, nếu bà Nhu có ở nhà lúc đó, thì bằng trực giác linh mẫn, sự quyết đoán và cái uy của bà với đám tướng lĩnh quân đội, có thể một lần nữa bà có khả năng đảo ngược tình thế như năm 1960. Thậm chí, ngay cả khi bà còn ở Hoa Kỳ, khi biết tin chồng và anh chồng bị giết hại, bà đã can thiệp kịp thời để đảm bảo an toàn cho ba người con ở nhà lúc đó đã rơi vào tay đám tướng lĩnh tạo phản.

Trong bài báo đăng trên BBC Việt Ngữ, nhà báo Phạm Cao Phong so sánh số phận đặc biệt của bà Ngô Đình Nhu ẩn chứa dưới ý nghĩa của chòm sao Aries:

“… Tinh vân gắn với thân phận những người di tản buồn lấp lánh trên giải Thiên hà. Đây là chòm sao thứ nhất trong cung Hoàng Đạo có hình chiếc sừng dê. Định mệnh của bà Trần Lệ Xuân ẩn dưới tinh cầu Aries. Chú giải về chòm sao này có phần đúng với tính cách của bà với cái đầu đầy ý tưởng muốn thay đổi thế giới”.

Cũng như tính cách mạnh mẽ và “bướng” của bà mang đặc điểm của “con chuột lửa” Giáp Tý – năm sinh của bà, 1924. “Con chuột lửa” đó đã cắn đứt tấm lưới Số Phận oan khiên giăng trên đầu gia đình bà năm 1960. Giá như, ở cái thời khắc ngày 1 Tháng Mười Một 1963, bà không đi Hoa Kỳ mà ở nhà, có lẽ, số phận của chồng và anh chồng bà cũng khác, số phận VNCH đã khác và lịch sử Việt Nam đã khác.

Trong câu chuyện giữa ông Ngô Đình Quỳnh và nhà báo Phạm Cao Phong, dường như cả hai đều thiên về những tín điều bí ẩn – Định Mệnh. Điều đó cũng dễ hiểu, bởi càng những người đặc biệt, những cá nhân ưu tú, xuất chúng trong lịch sử thì cuộc đời của họ gắn liền với những điều kỳ lạ mà chỉ có thể giải thích bằng hai chữ Thiên Mệnh hay Định Mệnh.

Bài viết của nhà báo Phạm Cao Phong khiến tôi nhớ đến một nhân vật giang hồ thuật sĩ nổi tiếng ở miền Nam Việt Nam trước 1975. Nhân vật này từng tiên đoán về số phận của bà Ngô Đình Nhu khi còn bé. Đó là cụ Ngô Hùng Diễn, tên thật là Ngô Thế Diễn, quê ở Hà Nam, Phong Cốc, tỉnh Quảng Yên (giờ là thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh).

Cụ Diễn sinh thời được coi như “thần tướng”, từng xem tướng mệnh, phong thủy cho rất nhiều yếu nhân quốc gia như ông Thẩm Hoàng Tín (1909–1991; Thị trưởng Hà Nội từ Tháng Hai 1950 đến Tháng Tám 1952 dưới chính thể Quốc gia Việt Nam); Nguyễn Văn Tâm (1893-1990, Thủ tướng chính quyền Quốc gia Việt Nam từ Tháng Sáu 1952 đến Tháng Mười Hai 1953 thời Quốc trưởng Bảo Đại); ông “vua thép gai” Hoàng Kim Quy; trùm giang hồ Bảy Viễn; tướng Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Dương Văn Minh… Tác phẩm “Tướng pháp Ngô Hùng Diễn” mà người đệ tử thân cận của cụ là giáo sư Trần Quang Quyến sau này ghi chép lại những tiên tri đoán mệnh của cụ cho thấy đều ứng nghiệm.

Theo ghi chép của giáo sư Quyến, cụ Ngô Hùng Diễn đã tiên đoán về số phận của bà Trần Lệ Xuân khi bà còn nhỏ. Trước 1954, lúc cụ Diễn còn ở phố Cát Dài, Hải Phòng, bà Trần Văn Thông (phu nhân của Tổng đốc Nam Định Trần Văn Thông) đã đích thân xuống nhà mời cụ Diễn đến đoán mệnh cho các thành viên trong gia đình.

Ông bà Trần Văn Thông là ông bà nội của bà Trần Lệ Xuân. Sau này, cụ Diễn còn qua lại nhiều lần và có dịp tiên đoán về số phận của cô con gái Trần Lệ Xuân của hai ông bà Trần Văn Chương. Cụ Diễn nói rằng “… cô bé này có đôi mắt đẹp và uy nghiêm lắm, sau này chắc có chồng danh vọng và cao sang lắm. Nhưng nhớ nhé, cô phải luôn luôn ở bên cạnh nhà chồng, nếu mà xa gia đình chồng thì nhà chồng sẽ có đại họa.” – (Tướng pháp Ngô Hùng Diễn, trang 243). Thảm kịch ngày 1 Tháng Mười Một 1963 đã xảy ra lúc bà Nhu cùng con gái Ngô Đình Lệ Thủy sang Mỹ trong nỗ lực cuối cùng tìm kiếm sự ủng hộ từ những đồng minh đã “trở mặt thành thù”.

Bà Ngô Đình Nhu trong một chuyến công du Belgrade, Yugoslavia; gặp Thượng nghị sĩ Edward M. Kennedy và phu nhân (Getty Images)

Lá số Tử Vi ứng với cuộc đời và Định Mệnh của bà Trần Lệ Xuân như thế nào?

Việt Nam nói riêng và các quốc gia chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa nói chung, dù ở thời nào, cũng có nhiều người rất tin vào bói toán, tử vi, tướng mệnh; trong đó, bộ môn tử vi, tướng mệnh có ảnh hưởng sâu sắc và phổ biến trong nhiều khía cạnh đời sống, từ chọn người kết hợp làm ăn, hôn phối, quyết định đầu tư, ngày giờ khởi sự, đến cưới hỏi và mở cửa hàng…

Không chỉ thị dân, quan chức hay giới kinh doanh lớn càng tin vào tướng mệnh, lý số. Kỳ thực bộ môn Tử vi, tướng pháp đều là những môn khoa học cổ Phương Đông, có nền tảng lý luận từ Kinh Dịch và được thực nghiệm, đúc kết kinh nghiệm từ hàng ngàn năm. Đặc biệt, Tử vi là một hệ thống kiến thức cổ, có nguồn gốc xa xưa từ đời nhà Đường, sau được Hy Di Trần Đoàn, người sống thời Bắc Tống (888-893) tổng hợp và hệ thống lại để viết ra bộ Tử Vi Đẩu số toàn thư.

Tử vi có lẽ được du nhập vào Việt Nam thời Lý-Trần. Giai đoạn Mông Cổ diệt nhà Tống, quan binh Tống triều phải thiên di phương Nam, xin tị nạn ở đất Đại Việt. Trong số đó, có Hoàng Bính, quan trấn nhậm phủ Tư Minh, đã đem 1,200 người trong quyến thuộc vào Đại Việt tỵ nạn năm 1263. Hoàng Bính có người con gái xinh đẹp và tài giỏi, nổi tiếng với thuật xem tử vi, tướng mệnh. Sau này, bà được tiến cung và được vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) phong là Huệ túc phu nhân. Đây là người có vai trò phổ biến môn Tử vi và tướng mệnh trong hoàng tộc nhà Trần và cũng từ đó bộ môn này được phổ biến trong hàng ngũ quí tộc phong kiến Việt Nam.

Xưa, các bậc danh Nho như Lê Quí Đôn, Trạng Trình, Nguyễn Công Trứ… đều tinh thông các môn Lý số, Nhâm cầm độn toán, tướng pháp, tử vi…, trong đó nổi bật là Lê Quí Đôn và Trạng Trình với những sấm truyền nổi tiếng tới tận ngày nay.

Nhân cuộc nói chuyện của ông Ngô Đình Quỳnh và bài viết của nhà báo Phạm Cao Phong trên BBC, gợi nhắc ký ức đau buồn về sự kiện ngày 1 Tháng Mười Một 1963, tôi mở lá số của bà để một lần nữa chiêm nghiệm sự an bài của Định Mệnh về một cuộc đời từng rực rỡ hương sắc, tột đỉnh vinh quang và cũng đẫm nước mắt. Số phận bà Trần Lệ Xuân chịu bao nhiêu bão tố, mất mát, vùi dập chứ không phải cơn mưa xuân mát mẻ, giống như cái tên của bà.

Năm nay là năm thứ 60 kể từ sự kiện Tổng thống Ngô Đình Diệm và các bào đệ của ông bị sát hại. Theo quan niệm Á Đông thì sáu mươi năm là một vòng Lục thập hoa giáp, các vì sao luân chuyển và tác động theo một chu kỳ vòng lặp, trở lại đúng vị trí của 60 năm trước đó.

Bà Ngô Đình Nhu tại Mỹ, Tháng Mười Một 1963 (Getty Images)

Bà Nhu, nhũ danh Trần Lệ Xuân, sinh ngày 22 Tháng Tám 1924 tức ngày Quí Dậu (22) tháng Nhâm Thân (T7), năm Giáp Tý, theo Âm Lịch. Bà mệnh Hải trung kim là vàng đáy bể nhưng Hỏa Cục nên Mệnh-Cục tương khắc, vốn đã có chỉ dấu một đời nhiều điều bất thuận ý.

Mệnh-Thân đồng cung an tại Dần cung, có bộ Thiên Đồng, Thiên Lương là hai phúc tinh miếu địa tọa thủ. Tam hợp Mệnh cung có đầy đủ bộ Cơ – Nguyệt – Đồng – Lương với tập hợp trợ tinh tốt đẹp như Lộc Tồn – Thiên Mã –Thiên Khốc – Điếu khách – Văn khúc – Tướng quân – Quốc ấn – Phượng các… đã hiện diện là một người thiên bẩm anh tài, thông minh xuất chúng, lanh lợi, giỏi giang từ nhỏ.

Âm Dương miếu đắc có bộ Xương Khúc nên cuộc đời hanh thông từ nhỏ (Tuy vậy, Thái dương can Giáp hóa Kỵ, hội cung Văn Xương ở Phúc cung là đã chỉ dấu một nội tâm sẽ chất chứa đầy đau thương). Đây là bộ sao của bậc lương đống cho quốc gia, danh tiếng lẫy lừng. Dù không phải là chân mệnh nguyên thủ, nhưng là người có thực quyền, có tiếng nói trong công tác tham mưu và hậu trường.

Ngôi sao Thiên Mã chỉ nghị lực của đời người, tọa ở Thân, Mệnh cũng chính là điềm báo một đời phiêu bồng, năng nổ, hoạt bát, tranh đấu tới cùng. Con Thiên mã đó có làm nên kỳ tích, nổi danh hay không là nhờ bộ Lộc tồn, Thiên Khốc, Điếu khách, Phượng Các. Có được thuận buồm xuôi gió, phong quang đắc lộ hay không là nhờ đắc vòng Tràng sinh. Nhưng nó sẽ là ngựa kéo xe tang khi đi cùng Tang Môn, Thiên Hình. Tất cả cũng đều hiện diện ngay trong Mệnh cung lá số này. Ngôi sao Thiên mã trong Tử vi chẳng phải ứng với chòm “tinh vân gắn với thân phận những người di tản buồn lấp lánh trên giải Thiên hà” – Aries đó sao?

Điều mà tôi chú ý nhất là trong lá số của bà Nhu là có hai cung chức rất xấu. Đó là cung Tật ách – cung chức biểu thị Nghiệp ách của đời người. Trong cung này có sao Thiên Phủ bị Triệt Không, Đào hoa, Lưu Hà chỉ dấu một cuộc đời có tột đỉnh vinh quang đến đâu cuối cùng chỉ là hoa trôi, nước chảy.

Cung thứ hai là cung Điền Trạch. Cung này không những ý chỉ về tài sản, nhà cửa bất động sản nhưng cũng chỉ về gia đạo và các thành viên liên quan. Cung Điền Trạch của bà Nhu có một bầy hung tinh là Địa Không – Địa Kiếp – Kiếp sát – Đại Hao – Phá toái.

Đó là chỉ dấu rõ ràng về một đại kiếp nạn “gia bại, nhân vong”. Đặc biệt cung này không có chính tinh. Cung xung chiếu của nó là Liêm Trinh – Tham Lang ở Tử tức cung. Khi đại hạn chuyển đến cung Tử tức, ứng vào giai đoạn từ năm 36 đến 45 tuổi, đại kiếp nạn sẽ diễn ra khi Tham Lang hoặc Liêm Trinh ở cung Tử tức hóa Kỵ xung phá cung Điền Trạch. Đó chính là năm 1963 Quí Mão khi Tham Lang hóa Kỵ.

Hai ngôi sao phúc tinh Thiên Đồng – Thiên Lương đắc miếu tại Mệnh cung, có Lộc tồn tọa thủ đảm bảo cho bà một Mệnh số vững vàng, bộ (Thiên Quí – Cô Thần) như được Trời che đất chở, có thể vượt qua hung hiểm đời người, có khả năng biến nguy thành an. Bà đã bị bắn vào vai trái vào năm 1962 (Nhâm Dần) trong một cuộc ám sát nhưng không chết và cũng thoát nạn diệt thân năm 1963 (Quí Mão).

Với bộ sao Linh – Kỵ đắc miếu ở Phúc cung cho bà có sự linh mẫn và giác quan thứ sáu đặc biệt. Bà đã phá tan âm mưu đảo chính của nhóm tướng lĩnh quân đội và CIA năm 1960 bởi khả năng tỉnh táo, nắm rõ tình thế, với một sự quyết liệt, dũng cảm phi thường, không cam chịu (Mã – Khốc – Khách, Tràng sinh, Tướng quân). Bà đã chống lại và vượt thắng được Số Phận nhiều lần. Ngay cả khi thảm kịch chụp xuống cả gia đình, bà vẫn là thần bảo hộ cho những người xung quanh bà. Nhưng cung Tật ách – cung số mang Nghiệp ách của cuộc đời bà là ngôi sao Thiên Phủ ngộ Triệt, Đào hoa ngộ Lưu Hà chỉ dấu một kết cục danh lợi vinh quang cuối cùng chỉ là hoa trôi, nước chảy. Tất cả là phù du, tan nát hết.

Ngôi sao Thiên Lương ở Mệnh tuy là phúc tinh che chở, đảm bảo cho sự an nguy của tính mạng nhưng khi đi cùng Lộc tồn ý chỉ bà phải xa vòng lợi danh, thì mới tránh được điều tiếng. Nếu liên quan đến tiền bạc, thì sẽ gặp chuyện khó xử và thị phi. Vả lại, cung Thiên Di là bộ mặt thể hiện ngoài công chúng có Hỏa tinh hãm địa, tọa cùng Phi Liêm. Hỏa tinh là một ác tinh, tối kỵ với bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương, chỉ hợp với Tham Lang.

Phi liêm là ngôi sao tiểu nhân, xảo trá. Bộ Hỏa tinh – Phi Liêm ở Thiên Di thì tránh sao một đời bị bôi nhọ, bị hãm hại. Dù có Triệt đóng ở Thiên Di, khi còn uy quyền có thể dẹp yên được nhất thời nhưng không khỏi chịu oan khuất. Với cung Di này, bà chỉ nên ở phía sau hậu trường, giống như chồng bà. Nhưng cá tính mạnh mẽ, ương bướng của bà với bộ Điếu Khách, Văn Khúc thì làm sao mà bà chịu im trước những trò lố, những âm mưu hãm hại gia đình bà?

Cung Phụ Mẫu của bà có cả hai tập đoàn hùng mạnh nhất trong số các chính tinh là Tử Vi – Vũ khúc – Liêm Trinh và Thất Sát – Phá Quân – Tham Lang. Bà sinh năm Giáp Tý, nên Liêm Trinh hóa Lộc, Phá quân hóa Quyền, Vũ khúc hóa Khoa, Thái dương hóa Kỵ.

Tam hợp Phụ Mẫu cung của bà được tam cát hóa Khoa Quyền Lộc, chính tinh đắc miếu. Đó cũng là điều hiển nhiên khi bà xuất thân từ dòng dõi cao sang. Cha mẹ, trưởng bối đều là người quyền thế danh tiếng. Ông nội của bà là Tổng đốc Nam Định Trần Văn Thông. Cha của bà là ông Trần Văn Chương, Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ. Mẹ của bà là Thân Thị Nam Trân, cháu ngoại của Vua Đồng Khánh… Thế nhưng, bà lại “vô duyên” với cha mẹ, do bộ Thiên Hình – Kình Dương ở Phụ mẫu cung. Và quan hệ của cha mẹ bà với ông Nhu cũng nhiều sóng gió vì không phù hợp về quan điểm chính trị.

Bà Nhu có ba hạn lớn cùng xảy ra vào một đại hạn (Tôi gọi là đại vận. Mỗi đại vận ứng với 10 năm cuộc đời) ở cung Tử tức, ứng vào giai đoạn từ năm 36 tuổi đến năm 45 tuổi. Ở cung này có sao Liêm Trinh, Tham Lang tọa thủ. Cách cục Liêm Tham tỵ hợi là một cách cục xấu và người có bộ sao Cơ – Nguyệt – Đồng – Lương trong Thân, Mệnh cung khi đến hạn Liêm – Tham thì đã báo hiệu tiềm ẩn hung họa.

Lá số của bà Ngô Đình Nhu (Trần Lệ Xuân)

Hạn lớn thứ nhất của bà năm 1962, khi bà bị bắn vào vai trái. Đó là năm Nhâm Dần. Năm Nhâm, Vũ Khúc ở cung Phụ mẫu hóa Kỵ, tọa cùng có Thiên Hình, biến thành một cách cục rất xấu là Vũ – Sát – Hình – Kỵ xung với cung Tật ách nguyên cục (có bộ Đào hoa, Lưu Hà). Cung lưu niên tiểu hạn có Phi-Hỏa. Thành thử hội đủ bộ cách sao bị nạn do đạn bắn, máu đổ, đe dọa trực tiếp đến sinh mạng của bà. Nhưng Mệnh bà lớn nên tai qua nạn khỏi.

Hạn lớn thứ hai chính là Tháng Mười 1963 (Quí Mão). Khi đó, sao Tham lang hóa Kỵ ở Tử tức cung cùng với lưu Đà, lưu Hổ (Hổ liếm) xung chiếu cung Điền Trạch có Địa Không, Địa Kiếp, Kiếp sát, Đại hao, Phá toái, lưu Tang Môn đều là những tập đoàn hung tinh, ác tinh. Ngày Mùng 1 tháng 11 năm 1963, chính là ngày Mậu Thân, tháng Nhâm Tuất, nguyệt hạn ở cung Mão (cung Phụ Mẫu) nên Vũ khúc hóa Kỵ (tháng Nhâm), Thất Sát, Thiên Hình, lưu Thái tuế xung chiếu với Đào hoa, Lưu hà ở Tật ách cung… Với những tập đoàn sát tinh, ác tinh, hung tinh hội đủ ở cả gốc đại hạn, lưu niên đại hạn, nguyệt hạn như thế nếu bà ở Việt Nam thì e rằng khó giữ được tính mạng và cả bốn người con. Cách duy nhất là lưu vong. Đó là Định Mệnh.

Hạn lớn thứ ba chính là sự kiện con gái bà là Ngô Đình Lệ Thủy (trưởng nữ) tử nạn trong tai nạn xe hơi vào ngày 13 Tháng Tư 1967 (năm Đinh Mùi). Năm đó, lưu niên tiểu hạn của bà Mệnh ở cung Mão, lưu niên của cung Tử tức ở cung Tý. Năm Đinh Mùi, Cự Môn hóa Kỵ. Mất mát này như một vết chém vào thân cây cổ thụ bị sét đánh cháy, đã chết khô, không còn làm nó đau thêm được nữa.

Trong cuộc đời 87 năm đằng đẵng, bà đã chịu bao nhiêu nỗi hàm oan. Những kẻ căm ghét bà, như Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Trọng Miên…, đã dựng những câu chuyện tồi bại bịa đặt để bôi nhọ bà và gia đình ông Diệm. Bà Nhu đã sống phần đời còn lại trong cô quạnh và túng thiếu chứ không như những đồn đoán rằng bà mang theo cả gia sản lớn. Bà nhẫn nhịn trong câm lặng, ẩn dật chịu đựng nỗi đau khủng khiếp từ những biến cố thảm khốc mà Số Phận giáng xuống gia đình bà, chồng, con bà. Bà đã sống 50 năm như thế, trong sạch và giữ cho mình một cốt cách trúc quân tử – dù bị đốt cháy cũng vẫn giữ nguyên hình dáng ban đầu.

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: