Cộng Sản Việt Nam bỏ lỡ cơ hội mà Washington trao như thế nào?

Tổng thống Jimmy Carter, Tháng Một 1979 (ảnh: HUM Images/Universal Images Group via Getty Images)

Mỗi khi nhắc đến việc Mỹ bãi bỏ cấm vận và bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, người ta thường nghĩ đến Bill Clinton hay John McCain, nhưng thật ra Tổng thống Jimmy Carter mới là người có công lót những viên gạch đầu tiên trên con đường gập ghềnh đầy những bãi mìn còn sót lại từ cuộc chiến.

Bối Cảnh

Tháng Hai 1973, sau khi Hoa Kỳ và Bắc Việt ép Tổng thống Thiệu ký kết Hiệp Định Paris, Nixon gởi một bức mật thư cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng, trong đó ông nói “Hoa Kỳ sẽ đóng góp cho việc tái thiết Bắc Việt, không tùy thuộc vào cân nhắc chính trị nào cả,” nguyên văn:

The U.S. government will contribute to the reconstruction of North Vietnam without any political considerations whatsoever.”

Ông còn viết thêm là “dựa trên nghiên cứu sơ khởi của chính phủ, đóng góp của Hoa Kỳ vào các chương trình tái thiết hậu chiến như nói trên tương đương khoảng $3.25 tỉ dưới hình thức viện trợ không cần hoàn trả.”

U.S. preliminary studies show that programs appropriate for a U.S. contribution to the aforementioned postwar reconstruction will amount to about $3.25 billion in nonrefundable aid.”

Tuy không nói ra, nhưng đằng sau lời hứa ấy là hai điều kiện. Thứ nhất, mọi chi tiêu của Hoa Kỳ cần được thông qua bởi Quốc Hội. Thứ nhì, Bắc Việt phải tuân thủ các điều khoản trong bản hoà ước vừa mới ký chưa kịp ráo mực. Những gì xảy ra sau đó chúng ta đều đã biết.

Mỹ rút quân; trao đổi tù binh; dọn đường cho Nixon ra tái tranh cử. Bắc Việt vi phạm Hiệp Định Paris một cách thô bạo, dốc toàn lực vào việc tấn công VNCH. Điều đáng nói là khi ấy Hà Nội chắc mẩm sau khi nuốt gọn miền Nam họ còn sẽ nhận được $3.25 tỉ từ Washington để “tái thiết” đất nước.

Tháng Mười 1973, Phó Tổng thống Spiro Agnew từ chức sau khi bị tố tội tham nhũng và gian lận thuế. Chiếu theo Tu Chính Án 25, Hạ Viện bầu Dân biểu Gerald Ford – khi ấy là lãnh đạo cánh Cộng Hòa – lên thay thế. Sang Tháng Tám năm sau, đến phiên Nixon phải từ chức vì vụ Watergate. Thế là Gerald Ford đang từ một nhà lập pháp tại Hạ Viện bỗng nhảy lên làm tổng thống trong vòng chưa đầy một năm.

Nước Mỹ lúc bấy giờ trải qua một cơn khủng hoảng chính trị nghiêm trọng nhất từ sau Nội Chiến. Tuy nhiên phong trào phản chiến đã lắng dịu phần nào từ ngày Mỹ ký Hiệp Định Paris và lệnh quân dịch được bãi bỏ. Dân Mỹ đã bớt quan tâm đến cuộc chiến nên Quốc Hội cũng không còn mặn mòi với việc đổ thêm tiền vào Việt Nam. Giữa Tháng Tư 1975, với số phiếu áp đảo, Lưỡng Viện bác bỏ yêu cầu chi thêm $700 triệu cho VNCH của Tổng thống Ford. Cuối Tháng Tư, Sài Gòn thất thủ.

Cần nói thêm, trong thời Chiến Tranh Lạnh, Hoa Kỳ cùng các thành viên NATO đã lập ra CHINCOM, một quy ước chế tài và cấm vận đối với các nước cộng sản như Nga và Trung Quốc cùng đám đàn em, trong đó có Bắc Việt. Sau 30 Tháng Tư 1975, ông Ford lập tức ra lệnh nới rộng lệnh cấm vận ấy lên toàn cõi Việt Nam từ Nam chí Bắc.

Không chỉ từ chối thiết lập bang giao, Ford còn dùng lá phiếu của Hoa Kỳ trong Hội đồng Bảo an để ngăn không cho Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc. Tất cả tài sản của Việt Nam ở Mỹ bị đóng băng. Mọi sự giao thương, giao thông, thư từ, điện thoại v.v. đều bị cấm. Các ngân hàng quốc tế như World Bank, Asian Development Bank, International Monetary Fund do Mỹ đứng đầu đều không (dám) cho Việt Nam vay. Kinh tế Việt Nam trước đã tệ vì theo mô hình Marxist-Leninist, nay càng kiệt quệ bởi thiếu vốn đầu tư. Đàn anh Soviet chỉ muốn cho vay cắt cổ trong khi bạn vàng Trung Cộng thì quay sang làm ăn với Mỹ.

Jimmy Carter bước lên sân khấu

Mùa bầu cử 1976, Jimmy Carter vận động tranh cử với thông điệp hàn gắn vết thương chiến tranh và hồi hương hài cốt lính Mỹ mất tích ở Việt Nam (MIA). Tuy ông chỉ thắng sít sao với 50.1% phiếu phổ thông, nhưng bấy nhiêu cũng đủ khiến cho các “đồng chí” Ba Đình phấn khích.

Một trong những việc đầu tiên vị tân tổng thống làm là thành lập một ủy ban gồm năm người có nhiệm vụ nghiên cứu kế hoạch lập bang giao với Việt Nam. Đứng đầu là Leonard Woodcock, chủ tịch liên đoàn công nhân United Auto Workers, người từng chỉ trích mãnh liệt các chính sách của Mỹ đối với Việt Nam trước kia. Thêm vào đó là Dân biểu “Sonny” Montgomery, thuộc đảng Dân Chủ nhưng lại bảo thủ và phản chiến hạng nặng.

Leonard Woodcock (Getty Images)

Tháng Ba 1977, phái đoàn bay sang Việt Nam. Vừa đến Hà Nội, chưa kịp tỉnh cơn jetlag họ đã được Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh vời đến một cuộc họp không xếp lịch trước. Tại buổi họp, ngài ngoại trưởng tuyên bố thẳng thừng rằng Hoa Kỳ còn thiếu Việt Nam $3.25 tỉ, rằng không những đó là một “món nợ đạo đức” mà còn là một “nghĩa vụ pháp lý”.

Woodcock phản biện rằng sẽ không người dân Mỹ nào đồng ý với chuyện Hoa Kỳ trả tiền cho Việt Nam để “mua lại” hài cốt. Hai bên cứ thế mà giằng co suốt ba ngày họp. Cuối cùng, trước khi phái đoàn Mỹ ra về, Hà Nội cũng trao cho Woodcock 12 bộ xương (được cho là của lính Mỹ) coi như để tỏ thiện chí. Lòi ra một trong 12 bộ xương ấy là của một người đàn ông Việt Nam!

Tuy cuộc gặp thứ nhất chẳng đi tới đâu, nhưng Việt Nam vẫn kiên trì theo đuổi con mồi béo bở. Vài tuần sau, Phạm Văn Đồng thư cho Woodcock đề nghị một buổi họp thứ nhì ở Paris vào Tháng Năm 1977. Tổng thống Carter lập tức nhận lời.

Lần này ông Carter giao nhiệm vụ đàm phán cho Richard Holbrook, 36 tuổi, nổi tiếng là một tay thương thuyết cừ khôi, từng làm việc tại miền Nam Việt Nam vào những năm 1963-1966. Đại diện cho Việt Nam là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phan Hiền. Để dọn đường cho phe ta, tờ Nhân Dân đăng bức mật thư của Nixon lên báo với hy vọng nó sẽ tạo áp lực lên phái đoàn Mỹ.

Richard C. Holbrooke (Getty Images)

Holbrook nói với Phan Hiền triệu Tổng thống Carter sẵn sàng dỡ bỏ lệnh cấm vận, tái lập bang giao và sẽ không bỏ phiếu chống Việt Nam vào LHQ nữa. Nhưng Phan Hiền cứ nằng nặc đòi Mỹ phải trả $3 tỉ trước. Hai bên giằng co qua lại chưa ngã ngũ thì Việt Nam bỗng chấm dứt buổi họp sớm và triệu tập một cuộc họp báo. Trong sự ngỡ ngàng của mọi người, Phan Hiền mang bức mật thư của ông Nixon ra đọc trước công chúng và tuyên bố mọi thương thảo từ rày về sau sẽ tùy thuộc vào việc Mỹ giữ lời hứa bồi thường chiến tranh.

Nhưng người cộng sản đã tính sai nước cờ. Họ lầm tưởng các nhóm phản chiến ở Mỹ vẫn còn mạnh và có thể gây áp lực với chính quyền, nào ngờ Quốc Hội Mỹ lập tức phản ứng với hai đạo luật.

Đạo luật thứ nhất nghiêm cấm chính phủ Carter “thương lượng việc bồi thường, viện trợ hay chuyển tiền cho Việt Nam dưới mọi hình thức.” Đạo luật thứ nhì bác bỏ lời hứa trong bức mật thư của ông Nixon, cho rằng nó không có giá trị pháp lý nào cả.

Chưa muốn bỏ cuộc, Holbrook đề nghị với Phan Hiền hai bên lập văn phòng liên lạc (liaison office) tại Hà Nội và Hoa Thịnh Đốn để tiếp tục thương thuyết, song Việt Nam từ chối. Phan Hiền thì đề nghị ký kết một thỏa thuận viện trợ ngầm mà không cho Quốc Hội biết. Tất nhiên Holbrook không dại gì đi làm cái chuyện vừa điên rồ vừa phi pháp ấy. Thế là nỗ lực tái lập bang giao với Việt Nam của Jimmy Carter năm 1977 coi như bất thành.

Hồi Hai

Sang năm 1978 kinh tế Việt Nam tiếp tục tuột dốc trong khi Mỹ ngày càng chuyển hướng sang Trung Quốc, nhất là sau khi Zbigniew Brzezinski lên thay thế Ngoại trưởng Cyrus Vance. Thấy không ổn, Hà Nội bắn tiếng cho Tổng thống Carter và nói họ sẵn sàng đối thoại phi điều kiện. Mỹ đáp lời cho hay hai bên có thể gặp riêng vào tháng Chín, nhân dịp phái đoàn Việt Nam sang New York dự một buổi họp của Liên Hiệp Quốc.

Đại diện Cộng sản Bắc Việt, 1973 – trái sang: Xuân Thủy, Lê Đức Thọ, và Nguyễn Cơ Thạch (ảnh: White House via CNP/Getty Images)

Một lần nữa Holbrook được giao trọng trách thương thuyết. Đại diện cho phía Việt Nam là Nguyễn Cơ Thạch, một gương mặt trẻ sáng giá, ăn nói lưu loát, được giới ngoại giao nước ngoài rất mực khen ngợi. Song việc đầu tiên Thạch hỏi Holbrook là Hoa Kỳ chấp nhận bồi thường cho Việt Nam bao nhiêu tiền. Holbrook chưng hửng, đáp rằng lý do Mỹ đồng ý có cuộc gặp này vì tưởng chuyện tiền bạc đã được dẹp qua một bên.

Holbrook định xách cặp ra về thì Thạch đổi giọng, nói rằng Việt Nam sẵn sàng ký một thỏa thuận liền tức thì mà không nêu vấn đề tiền nong gì cả. Holbrook nói ông ta không có thẩm quyền ký, nhưng sẽ tham khảo với Bộ Ngoại giao rồi báo cho Thạch hay. Thạch ở lại New York chờ câu trả lời từ Holbrook. Nhưng lần này tới phiên Mỹ cho Việt Nam leo cây. Đợi cả tháng trời không thấy Holbrook nói tiếng nào, Nguyễn Cơ Thạch cuối cùng bay về Hà Nội với hai bàn tay trắng.

Hạ Hồi

Cuối năm 1978 Lê Duẩn ký một hiệp ước quân sự với Soviet, không lâu sau đó Việt Nam đem quân sang đánh Khmer Đỏ. Hành động xâm lược này đã tạo nên một hình ảnh xấu cho Việt Nam khiến việc bình thường hóa quan hệ Mỹ-Việt là điều không tưởng.

Năm 1979 Trung Quốc tấn công Việt Nam; chiến tranh biên giới bùng nổ. Cuộc đàn áp người Việt gốc Hoa lên cao độ. Làn sóng vượt biển ngày càng gia tăng. Hình ảnh thuyền nhân và những câu chuyện thương tâm của “Boat People” lại càng làm cho thế giới tự do không muốn giao tiếp với Việt Nam nữa.

Phải đợi đến cuối thập niên 1980, khi các nhà lãnh đạo thế hệ “kách mệnh” chết bớt và chính sách “đổi mới” ra đời, Việt Nam mới được Hoa Kỳ và các nước trong khối tự do từ từ nới lỏng các quy định chế tài.

Đầu thập niên 1990 một số thượng nghị sĩ cựu chiến binh từng tham chiến ở Việt Nam như John Kerry, Bob Kerrey, Chuck Robb… bắt đầu lên tiếng ủng hộ việc hòa giải và bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Thượng nghị sĩ John McCain, người ở tù cộng sản nhiều năm, lúc đầu phản đối chuyện này rất mực, nhưng dần dà ông cũng đổi thái độ và trở thành một tiếng nói có uy tín, đắc lực giúp Tổng thống trốn quân dịch Bill Clinton bãi bỏ lệnh cấm vận năm 1994 và tái lập bang giao năm 1995.

Nhìn lại chặng đường đã qua, có thể thấy rõ rằng sự tự kiêu, tự tin và tự phụ của lãnh đạo Cộng sản Bắc Việt đã trở nên thái quá đến mức che mờ cả lý trí khiến họ biến thành những kẻ ngu xuẩn không biết nắm bắt cơ hội vàng mà Tổng thống Jimmy Carter trao cho họ, hậu quả, suốt một thời gian dài, bao nhiêu đau khổ đã chất chồng lên đầu người dân.

___________

Tài liệu tham khảo:

Fall of Saigon Meetings, March-April 1975

Foreign policy of the Gerald Ford administration

The Rocky Road To Reconciliation

Richard Holbrooke, the Last Great Freewheeling Diplomat

When Richard Holbrooke met Nguyen Cơ Thach in New York in September 1977

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: