Saigon-của-tôi, Khoảnh Khắc Hóa Thành Thiên Thu

Đời người dẫu có mong manh

Đôi khi khoảnh khắc hóa thành thiên thu

Gom nhặt ký ức về “Saigon của tôi”…

Ngày… tháng… 1975

Đầu năm 1975, Tết Âm lịch xong, chị em tôi trở lại Saigon để bắt đầu chuẩn bị gạo bài cho mùa thi cuối khóa. Thật sự lúc ấy vì đang đi học nên trọng tâm suy nghĩ của tôi nặng về trường lớp, thi cử là chính. Chuyện chiến tranh, tôi cũng tìm hiểu, đọc các phóng sự, tác phẩm viết về người lính. Các anh bạn của các chị tôi trong nhiều binh chủng thỉnh thoảng có kể phớt qua. À lạ là khi các anh được phép về hậu phương thăm gia đình, rất hiếm khi kể các trận hành quân nguy hiểm lội sình lầy, những chuyến nhảy dù xuống chiến địa, các chuyến lái trực thăng cứu nạn, đi tuần trên sông ngòi kinh rạch bị trúng đạn pháo kích… Có lẽ họ đối diện cái chết thường trực, nên khi được vài ngày phép ít ỏi, họ không muốn nhắc nhớ đến những gian nguy, để được hưởng trọn vẹn khoảnh khắc yên bình.

Ngày… tháng 2-1975

Theo tin tức từ báo chí thì tỉnh Phước Long đã mất vào tháng 1. Dần dần chiến sự ở miền Trung gia tăng chỗ này chỗ nọ. Tôi lo lắng nhưng vẫn đinh ninh giống như Tết Mậu Thân 1968 hay Mùa Hè đỏ lửa 1972, sau rốt miền Trung sẽ vẫn là của người Nam từ vĩ tuyến 17 trở vô, không ai có thể chiếm được.

Ngày… tháng 3-1975

Báo chí tiếp tục đăng nhiều tin đáng lo ngại. Ban Mê Thuột thất thủ. Lần lượt các tỉnh khác. Nhất là tin truyền miệng giữa người thân, bạn bè khiến chúng tôi hoang mang, nửa tin nửa ngờ. Không biết có bao nhiêu phần sự thật trong lời đồn đại. Tôi cứ tự trấn an: không lẽ nào.

Ngày… tháng 3-1975

Ba trường đại học Văn Khoa, Dược, Nông Lâm Súc nằm ở góc đường Thống Nhất-Cường Để. Đại Sứ Quán Mỹ cũng tọa lạc trên đường Thống Nhất. Mỗi sáng trước khi đến Văn Khoa, tôi đi ngang qua cơ quan ấy. Thấy trước cổng có nhiều người đứng xếp hàng. Sáng sớm hàng người đã có đó, buổi trưa hoặc chiều tan trường về, hàng người vẫn không vơi. Kiên nhẫn, không nao núng dưới cái nắng đổ lửa hay cơn mưa rào bất chợt. Chẳng những không vơi, mà mỗi ngày hàng người càng dài thêm ra. Chúng tôi ngạc nhiên, không hiểu họ đứng xếp hàng trước Tòa Đại sứ Mỹ để làm gì? Cũng qua bạn bè cho biết, rằng họ đến làm thủ tục xin đi Mỹ, trước khi Mỹ rút hết về nước, vì miền Nam sắp đổi chế độ rồi. Thật vậy sao? Thật mà. Tôi hỏi là bất cứ ai cũng có thể xin đi được? Bạn cười ngất: nếu vậy thì chắc gần hết dân Saigon đến xếp hàng rồi cô bé. Tôi tiu nghỉu.

Ngày… tháng 3-1975

Qui Nhơn, Nha Trang, Cam Ranh… lần lượt rơi vào tay đối phương. Tôi nghe càng lo lắng, sợ hãi. Nhưng cả trái tim lẫn tâm hồn tôi vẫn không chịu nhìn nhận thực tế đau buồn. Hy vọng chỉ là bị tạm chiếm mà thôi. Các giáo sư vẫn đến giảng đường đều đặn. Nhưng chúng tôi cảm nhận sự bất an trong bầu không khí, trong ánh mắt nét mặt của mọi sinh viên. Nếu thấy từng nhóm tụm năm tụm ba, châu đầu, thì thầm to nhỏ, hoặc lang thang ngoài hành lang, trong sân, căntin, thì không phải trao đổi về đề tài thi cử, mà bàn về thời sự.

Hình như từ tháng Ba, các rạp ciné Saigon bỗng đồng loạt tung ra các đại tuyệt phẩm Pháp, Mỹ với các minh tinh gạo cội chiếm nhiều giải Oscar. Bây giờ gặp mặt không ai bàn chuyện ôn bài tới đâu rồi, mà toàn kháo nhau chuyện sắp mất nước, chuyện chiến sự miền Trung, chuyện rạp Rex, Vĩnh Lợi, Eden, Đại Nam… chiếu phim gì trong tuần. Câu nói mà chúng tôi thường được nghe và chính mình cũng nói, là:

Chúng mình lợi dụng đi xem cho đã, kẻo mai nầy không còn cơ hội để xem lại đâu.

Thế là chị em chúng tôi thay vì trung bình mỗi tuần đi ciné một lần thì bây giờ cúp cua đều đặn, nhịn tiền quà mua vé xem hai ba phim, có khi hơn. Ở các trường Khoa Học, Luật, Văn Khoa thì sinh viên không bắt buộc phải dự lớp, chỉ cần học qua sách, hoặc mượn cours về chép lại. Giờ thì ai còn lòng dạ nào mà học bài. Thay vì hỏi là đã viết xong bài tổng kết về tác phẩm Jane Eyre của nhà văn Charlotte Bronte chưa để nộp thì đề tài trao đổi giữa các bạn trong những ngày này là:

– Sáng nay ở rạp A chiếu Nữ hoàng Cléopatre do Elizabeth Taylor đóng. Còn bên rạp B thì Nữ hoàng Áo Quốc Sissi do Romy Schneider đóng.

– Hôm trước xem lại Bác Sĩ Zhivago quá tuyệt vời, còn bên rạp C thì chiếu Tình Thù Rực Nắng (Summertime Killer), bên nọ Một Chút Mặt Trời Trong Ly Nước Lạnh (Un peu de soleil dans l’eau froide).

Và còn một danh sách dài những phim bất hủ của thế kỷ 20: Ivanhoe, Quo Vadis, Cuốn Theo Chiều Gió, Les Canons de Navarone, Nữ Hầu Tước Angélique, Vũ Điệu Trong Bóng Mờ, Chuyện Tình Roméo và Juliet, Love Story, Giai Điệu Hạnh Phúc (La Mélodie du Bonheur)…, nhiều nhiều nữa…

Giống như tử tù trước giờ ra pháp trường được đặc ân ban bữa ăn tươm tất. Có lẽ các ông chủ rạp phim ý thức thời thế sắp đến hồi chuông báo tử, không còn nhẩn nha thay vì mỗi tuần đổi một phim mới thì họ tung ra cùng lúc nhiều bộ, trước khi Saigon rơi vào con đường hầm tăm tối âm u.

Ngày… tháng 4-1975

Cuối tuần đến thăm bạn bên kia cầu Thị Nghè. Đối diện nhà bạn, một phụ nữ độ 40 tuổi, dáng nhỏ nhắn khắc khổ, đang thu dọn đồ đạc chất lên xích lô. Vài người hàng xóm đứng tụ tập chung quanh, người cầm xoong nồi, người cầm thau đồng. Bạn kể chị là dân miền Trung vào trọ, làm lao công quét dọn vệ sinh cho Tòa Đại Sứ Mỹ, giờ họ về nước, chị được họ cho đi cùng. Chị mang theo quần áo, còn những gì bỏ lại chị chia cho người quen. Lòng tôi nôn nao. Vài ngày sau, bạn vào lớp kể tiếp: xéo nhà có anh sinh viên trọ mà thỉnh thoảng đến chơi với bạn, chúng tôi thấy anh ngồi ngoài balcon đàn hát hoặc nghiêng người ra ngoài nói đùa với ai đó ở balcon đối diện. Tôi biết mặt vì gặp anh thường xuyên ở văn phòng Ban Chấp Hành SVĐH Văn Khoa mà anh là thành viên. Anh đóng tiền nhà tháng kế, xong âm thầm biến mất tăm không lời từ biệt. Họ còn đồn thổi anh làm việc cho Mỹ nên phải ra đi bằng mọi giá.

Tôi không còn nghĩ chuyện ôn bài vở, mặc dù thỉnh thoảng vẫn tiếp tục vào trường chiếu lệ. Các cô gái bớt vẻ nhí nhảnh điệu đà. Các anh trai nét mặt nghiêm trang, ánh mắt lo âu. Không khí ngột ngạt bao trùm. Hầu như ai cũng mang tâm trạng như nhau: Rồi tương lai chúng mình về đâu? Saigon nói riêng, miền Nam sẽ ra sao? Trường mỗi ngày mỗi thưa thớt sinh viên. Nhiều người bỏ học về quê hay đi đâu chẳng rõ. Số người đứng trước Đại Sứ Quán Mỹ nay nhân lên thành nhiều hàng chứ không là một nữa.

Trên đường đi học về, đến ngã tư dừng xe trước đèn đỏ, đoạn Bưu Điện và Nhà Thờ Đức Bà, có một chiếc Vespa xanh trờ tới đậu ngang xe chúng tôi. Chúng tôi thoáng nhìn nhau. Bỗng người ngồi sau bật thốt:

Sắp mất nước rồi các em ơi.

Như tiếng kêu tuyệt vọng của loài chim giẫy chết. Nghe buồn não nuột.

Tôi chết sững, không biết nói gì để đáp lời anh. Tôi không nhớ rõ gương mặt người thanh niên, nhưng câu nói ấy, âm thanh ấy trong ánh tà dương dần lụi tắt vẫn hằn vang rõ trong ký ức tôi đến tận bây giờ. Bởi đó cũng là tiếng kêu không lời của chính tôi. Anh đã nói giùm tôi hay giùm cho mấy mươi triệu đồng bào miền Nam những ngày cuối tháng tư đó vậy.

Một gia đình chỗ khu chúng tôi trọ, cách vài căn cũng đóng cửa bỏ đi. Nữ chủ nhân là vũ sư khá tiếng tăm. Chồng là sĩ quan cao cấp. Thảo nào chúng tôi thường thấy nhiều nam nữ ăn vận thanh lịch đến nhấn chuông. Có người ra kéo cánh cửa sắt vừa đủ cho xe và khách vào là vội đóng ngay, rất kín đáo. Chắc họ tôn trọng láng giềng, không để cho tiếng nhạc làm phiền chung quanh. Hai ngày sau lại một gia đình khác ở cuối ngõ cũng lặng lẽ đóng cửa đi mất.

Ngày 26-4-1975

Tôi nói với chị và em gái, hôm nay tôi sẽ về Rạch Sỏi thăm gia đình và kể cho ba má hay tình hình ở Saigon nguy ngập thế nào, và định thuyết phục ba má ra đi. Khi chiếc xe đò đưa tôi về Rạch Sỏi thăm gia đình ngày 26-4-1975, tôi đâu ngờ đó là ngày cuối cùng tôi-được-sống-với-Saigon-của-tôi, còn được hít thở không khí Saigon-của-tôi, còn được nhìn thấy đường phố Saigon-của-tôi.

Thấy tôi về một mình, hoảng hốt kể lại những điều chứng kiến tận mắt ở Saigon, ba má lo sợ nên kêu chị hai sáng hôm sau tức tốc lên Saigon thu xếp đồ đạc đón hai người còn mắc kẹt về ngay, không được nấn ná ngày nào nữa. Chị hai đi đến chiều tối thì quay về một mình, lý do là đường đi bị cắt đứt ở miệt Cai Lậy, bởi có đánh nhau, đúng vào ngày hôm qua tôi về. Xe tôi đi, chạy trót lọt buổi sáng vẫn bình yên, nhưng đến trưa thì “họ” tấn công, đạn pháo, mìn, súng… người chết nhiều lắm. Hú hồn, nếu hôm qua tôi đi chuyến xe trưa thì có lẽ tôi đã trúng đạn mà chết dọc đường rồi.

Tôi lấy mốc thời gian 26-4-1975 là ngày tôi chia tay Saigon, làm ngày tưởng nhớ Saigon. Sau ngày ấy, tôi có trở lại Saigon nhiều lần. Nhưng không còn là Saigon VNCH mà tôi biết và yêu thương nữa. Là ngày 26 chứ không là ngày 30. Bởi đó là ngày tôi rời Saigon về quê, tuần sau trở lại thì Saigon đã mang tên khác. Nó dần dần thay da đổi thịt. Đầu tiên là nhiều bóng dáng lạ, giọng nói lạ. Ngay cả với vài người mà tôi từng tưởng là bạn thì nay cũng bộ mặt đó nhưng sao lạ hoắc lạnh lùng. Những “cái thêm, cái mới” lạ lẫm với tôi quá. Mà tôi thì chỉ khư khư tìm những “cái mất”.

Tôi đến giờ vẫn nhớ quay quắt những lần theo người chị sang giảng đường trường Luật dự thính bài. Nhớ lần ca sĩ Anh Khoa vào hội quán trường Văn Khoa của tôi hát Bao Giờ Biết Tương Tư cho đám trẻ chúng tôi nghe. Tôi nhớ đường Duy Tân, đường Cường Để, đường Thống Nhất – những con đường quen thuộc của chị em tôi đi hàng ngày để đến lớp học. Nhớ như in những ngày cuối tuần lượn lờ trên đường Lê Lợi, vào quán sách Khai Trí; đến Nguyễn Huệ xem ciné Rex; đến Tự Do, đến Nhà Thờ Đức Bà với công trường Mê Linh để dự thánh lễ, dù tôi không có đạo, và tất nhiên đến đó không phải một mình.

Hỏi còn lại gì cho kỷ niệm tôi đây? Bây giờ có dịp về thăm nhà ở tỉnh, tôi cũng dừng chân “Saigon-bây giờ” vài hôm. Tôi như lạc lõng trong thành phố lạ. Không có gì vương vấn níu kéo tôi ở đó, ngoại trừ người thân, và vài người bạn còn sót lại. Tôi đã đắp mồ chôn Saigon-của-tôi, từ ngày 26-4 năm ấy…

April 2021

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: