Thơ viết để vượt sống…

Cảnh đời trong Nam - ngoài Bắc sau 1975 
Minh họa: kier-in-sight-unsplash

1/- SỨC MẠNH TỪ CHỮ VIẾT- THƠ

 

Tôi là kẻ quen nghiệp viết văn

Giấy, bút bị lấy mất

Đêm đen thăm thẳm lạnh căm

Chép Thơ trên mười ngón tay tính nhẩm

Chữ nghĩa mơ hồ vụn vỡ

Mất ngay đi

Vỡ thần kinh kiệt sức

Năm tháng chốn kiên giam

Biền biền khối đen dầy hơn ánh sáng…

 

Nhằm tự cứu

Hằng nhẫm đọc dòng Thơ

Ngũ ngôn, lục bát đơn giản ngắn vần

Gắng sống lần hồi trên giải đinh nhọn sắt

Với Thơ,

Để không yếu hèn bật khóc

Từ Thơ,

Nguồn an ủi, nhắn nhủ dài lâu

Mỗi điều nhiên hậu

Người vẫn là Người

Phải luôn vượt sống

Dẫu trùng trùng ngút lửa rợn khổ đau…

Ồ lạ lùng những chữ, nghĩa, lời, câu

Đỡ gánh nặng kiệt cùng, giúp sức thêm mạnh mẽ

Đứng vững vàng,

Hiên ngang lên đường bước chân bền chắc

Ý, Ngôn, Từ… rạng rỡ

Sáng SỰ THẬT mở ra

Chuỗi ngặt điêu linh

Tủi nhục, phiền hà…

Thơ chống giữ cùng ta

Bừng bừng kiêu hãnh

Thơ chắp cánh lên cao xa hùng vĩ

Đặt bàn tay nhân ái động từ tâm

Thơ linh động nhịp tim

Thơ thúc giục trông tìm

Sáng Chân Lý giữa chập chùng Vô Nghĩa

Người được sống

Nhận Hồng Ân Thi Sĩ

Rất nhiệm mầu, nguồn vô tận từ Thơ

Trên môi khô, lưỡi đắng, sự chết…

Hừng hực lửa vô hồi

Người Phục Sinh với Thơ

Giòng sống động tràn đầy ân thân thiết

Thơ nâng Người qua vượt sự chết

Bền chắc kết kim cương

Thành Thơ,

Lực vô hạn giữa trần gian bão táp

Thơ khơi động nguồn thanh tân tiếng hát

Nhận khổ đau bình thản nhẹ nụ cười

Thơ trong Người

Nồng nàn máu tự thân

Cây Đời Sống luôn đầy ắp vun xới

Thơ mở lối đi

Ngày Hôm Nay Rộ Mới

Người và Thơ chăm sóc, nâng đỡ từng giờ

Lần đêm khuya, thấm thống nhục tràn bờ

Qua sáng sớm, trưa, chiều,

Vượt từng phút giờ hấp hối

Vững vàng, hiên ngang, âm âm tim phơi phới

Hận thù, tăm tối, hèn hạ, nhỏ nhen,

chủ nghĩa, giáo điều, hờn căm, ngụy tín…

Tất cả Hóa Không – Trước Mắt Nhìn Thi Sĩ

 

Người vô vàn vinh hiển

Viết xuống – Sống cùng Thơ.

 

Sài Gòn,

Ra tù, viết lại để nhớ

30 Tháng Tư 1975 – 19 Tháng 6 1989

2/-TRƯA LONG GIAO

 

Gởi Cao Xuân Hiệp,

Đặng Ái Văn và Nguyễn Xuân Trung

 

Qua trưa, ngực nặng bồn chồn

Tưởng em xao xác trên đường nắng loang

Chiều mưa bong bóng bập bùng

Nhớ con, âm động vọng thành cơn giông

 

Mùa Hè 75, Long Giao, Long Khánh, miền Nam

 

3/- MỘT NGÀY LONG GIAO

 

Buổi sáng Long Giao mờ hơi sương

Kẻng đánh rền vang giục lên đường

Trên nền đất lạnh tay che mặt

Đau nhục thấm sâu từng khớp sương.

 

Buổi trưa Long Giao hầm hập nắng

Cành lá sững im, cây chết lặng

Ngoài đường xao xác dạng con thơ

Đau nhói nơi tim, ngực thở nặng.

 

Buổi chiều Long Giao ứa máu đỏ

Run rẩy cỏ vàng khô se gió

Tiếng sắt, tiếng chì, loa phóng thanh

Vạn gã tù im, chìm nỗi sợ

 

Ban đêm Long Giao không tiếng người

Nghe rõ điêu tàn tận hơi thở

Tội nghiệp đớn đau mỗi giấc mơ

Chập chờn âm khốc lũ ma trơi.

 

Long Giao, Mùa Hè 1976

 

4/-QUA PHÀ ÂU LÂU

 

Đi đâu

Đi tới đâu?

Bước xuống phà Âu Lâu…

Sông Hồng âm âm sóng

Nắng vàng vọt giãi dầu

Đoàn tù im bước chậm

Lạc ánh mắt đậm sầu

Mũi súng chăn rờn rợn

Tóc ngã màu gió bay

Bên kia sông…

Rừng sâu

Đầu nguồn xanh xám đục

Mây mù giăng khói lạnh

Tiếng chim buồn đâu đây

Khó khăn! Hằng khắc phục (*)

Phận tù… Tận thấm nhục

Chim ơi… Ta hiểu lời

Mối muôn vàn thương mến

Vỗ về tự thinh không

 

(*) Một loại chim núi, kêu theo âm “Khó khăn khắc phục”

23 Tháng Sáu 1976. Đến Yên Bái

 

5/-NHỮNG NGÀY KHÔNG THỂ QUÊN

 

Buổi sáng run rẩy lãnh dao con

Rét đậm da nứt thịt đỏ hỏn

Mờ mờ sương trắng dựng sườn non

Từng thước trườn lên…

Từng thước khốn

Lũng sâu mờ tối nước róc rách

Suối thẫm bóng xanh mờ khí lạnh

Ngẫm thân thua trận nhận cùng đành

Ba-mươi vừa qua…

Tóc bạc nhanh

Chênh vênh triền vực được một cây

Lê lết mần mò giữa truông mây

Đưa tay vuốt mặt ngỡ mưa gấp

Nước mắt trào cay đâu có hay…

Ta ngồi thở nghẹn trên bó nứa

Chiều xuống âm âm thèm chút lửa

Giờ này nắng ấm nơi quê xa

Ngực nặng nhói đau tưởng máu ứa

Còng lưng cúi xuống… Nứa chất cao

Run rẩy, gập ghềnh bước lao đao

Mười ngón chân trần trì đá sắt

Lặng im trong tim, ghìm nhói đau

 

Qua được một ngày, mừng một ngày

Ngủ quên phần đêm, yên từng đêm

Mất nước.

Nhà tan.

Thân hẳn chết.

Buồn vui còn gì…

Một cõi riêng.

 

Một ngày Mùa Đông 1976; Trại 12, Hoàng Liên Sơn

 

6/- LAO ĐỘNG LÀ VINH QUANG (1)

 

Đế quốc nguyên ngày được dăm gốc (2)

Rễ luồng xuống sâu hơn một thước

Bùn đen, nước đọng quá nhiều năm

Mục thối da chân, đông rét đậm

Cuốc, xới, bới, đào… Được bãi sình

Ngang, dọc, ngắn, dài vài sào ruộng

Cán bộ hân hoan câu phẩm bình

Bàn tay người – Khả năng chất lượng!”

Bước tới, phá đồi ta xây đập

Bề ngang thung lũng, tay ta lấp

Giòng suối lẩn khuất dưới tranh dầy

Nay chận bít đầu – Nên trũng ngập

Có nước ta thắng lợi hơn trước

Nước vào bãi lầy thậm khẩn cấp

Rừng núi đổi thay nên ruộng đồng

“Đảng Ta” tiên liệu – Ôi siêu việt!

Nổi trống, giương cờ buổi lập xuân

Giục giã thi đua tăng lao động

Quần áo đội đầu, phơi xác thân

Tù nhân xuống đồng… Trần như nhộng

Đi qua, đi lại… Sục cỏ lúa

Đỉa đói giương vòi, ghê đám sứa

Gió Bấc buốt đau, tóc úa màu

Nước lạnh siết sâu, lưỡi dao cứa

 

Ngang, dọc giẫm hoài…

Ngày qua ngày

Lũ tù rạt rày từng bước gãy

Trên đầu mưa phùn giăng giăng bay

Cái giống con người… Lặt lừ nước bạc!

Làm cỏ đợt hai tiếp đợt ba

Lúa lên xanh đồng nên con gái

Một đêm lũ dâng thậm bất ngờ

Sáng đồng trống không lơ thơ cành gai!

Không sợ! Ta quyết bắt đầu lại

Với tim sắt thép chẳng quản ngại

Chiến thắng càng khó – Rõ vinh quang

Hiên ngang xông tới – “Lời Bác dạy”!

Chiêm Xuân ta chuyển sang Hè-Thu

Kinh nghiệm lần này, ta có đủ

Lúa kỳ thâu hoạch ắt bội dư

Ta đoạt bạc vàng từ rừng rú!

…..

Một đêm khẩn cấp lệnh chuyển trại

Ba-lô, gồng gánh tù vác vai

Ngang qua đám ruộng con bò cười

Nhẩn nha đứng nhai đám lúa trụi…

……

Uổng sức thay trâu cày bừa sâu

Uổng ngàn công nửa năm lao động

Uổng tiền, uổng lúa, uổng thóc giống

Mất sạch,

Toi công

Đồ… Việt Cộng

 

Đề tài về Lao Động, Học tập chính trị trong trại tù, khắp Miền Nam sau 1975

(2) Loại sậy thân lớn, cứng như mía lau

 

7/- CÔ GÁI TRÊN NÚI SỚM XUÂN

 

Em đứng trên đồi cao

Sáng Xuân mù mưa núi

Đá tai mèo gờn gợn

Rét buốt sắc đường dao

Mong manh tấm áo cũ

Lồ lộ dáng thanh tân

Xót xa phơi bầu vú

Lộng lẫy ngực nữ thần

Mắt xanh biếc sắc ngọc

Môi đỏ hồng màu son

Ôi em đang tuổi hoa

Loài hoa tàn bất hạnh

Em chứng thực đọa đầy

Lấm bùn se lá cỏ

Những ngón chân đỏ hồng

Nhức nhối ngày rét đậm

Mười ngón tay căng phồng

Lượm nhặt hạt lúa thảm

Nương gặt hết còn đâu

Giúp em qua khổ đói

Đá khô lạnh rầu rầu

Đất nào nuôi người nổi!

 

Em bao tuổi hỡi em?

Thanh thoát cao nét đẹp

Hoa sen chìm vũng khổ

Vùi dập đời tối đen

 

Sáng Xuân, mồng Hai Tết Mậu Ngọ, Hoàng Liên Sơn 1978

 

8/- NGƯỜI NỮ TÙ NHỎ TUỔI

 

Trông em tuổi độ thanh xuân

Môi khô chết bặt, lạnh tanh tiếng cười

Gánh đá nặng, nát lưng người

Một đầu tóc rối, tơi bời cỏ gai

Chân trần, gót nứt, dầy chai

Ngực hong gió lạnh, tay gầy gân xanh

Cảm thương phận khổ cũng đành

Lặng thinh cắn đọt lá dừa cầm hơi

Sớm đông giá trắng lưng đồi

Tím thâm da thịt, chập chùng bước chân

Đưa tay vuốt lớp mưa bay

Cho em khóc trộm đọa đầy riêng thân

Ngày sau chép sử nhớ lần

Chen trong “sự nghiệp” có phần máu rây! (*)

 

(*) “Bác Hồ sống mãi trong sự nghiệp chúng ta”- Khẩu hiệu chiến lược của Đảng Cộng Sản Hà Nội.

Trọng Đông 1978, Trại 5 Lam Sơn, Phân trại A/Trại Nữ, Thanh Hóa

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: