Sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, ngoài các sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, công chức cao cấp trong chính quyền bị tù đày; nhiều tu sĩ, nhất là các linh mục tu sĩ công giáo đã bị đưa đi “cải tạo,” cưỡng ép lao động hay phân tán buộc trở về gia đình. Nhiều cơ sở vật chất của giáo hội bị sung công, dưới nhiều hình thức, mà tới nay sau 50 năm vấn không trao trả.
Những con số được ghi nhận
Rất đáng tiếc là không có một thống kê chính thức nào của các giáo phận công giáo miền Nam, ghi nhận từ sau ngày 30 Tháng Tư đã có tất cả bao nhiêu linh mục, tu sĩ bị giam giữ lâu dài, thậm chí chết trong các “trại cải tạo”; bao nhiêu cơ sở vật chất bị trưng dụng.
Ngay từ năm 1969, giáo hội công giáo tại miền Nam có 226 trường trung học, 1,030 trường tiểu học, 48 bệnh viện, 35 viện dưỡng lão, 8 trại cùi, 159 phòng phát thuốc từ thiện… Con số này chắc chắc có thay đổi theo hướng tăng thêm vào năm 1975, và sau đó đã mất đi phần lớn.
Có lẽ, đúng như nhận xét đầy bi hài là chỉ có các trại cùi là không bị ai chiếm đoạt, vì chẳng có ông to bà lớn nào dám làm “cách mạng” nhận cho mình nơi khốn cùng ấy, họ chỉ giữ vai trò quản lý hành chính còn chấp nhận để các nữ tu tự nguyện giam đời mình trong đó!
Đáng nói là, trong đó có những cơ sở quan trọng, có bề dầy lịch sử hiện vẫn còn bị chiếm dụng với nhiều mục đích, như Tiểu Chủng Viện Huế (nay là trường cấp 2), Giáo Hoàng Học Viện Pio X Đà Lạt (nay là nhà ở cho cán bộ, nhân viện Viện Hạt nhân), Tu Viện Dòng Chúa Cứu Thế Đà Lạt (nay là Viện Nghiên Cứu Sinh Học), Trường Giáo Phu Ban Mê Thuột (Nay là trường cấp 2), Dòng Chúa Cứu Thế Nha Trang (nay là khách sạn)…
Riêng tại Tổng Giáo Phận Sài Gòn, một thống kê chính thức cho biết: Sau Tháng Tư, 1975, số linh mục từ 414 chỉ còn 226, tức là giảm mất 188 người. Không có thống kê chi tiết để biết chính xác số linh mục giảm sút này vì những lý do nào, nhưng có thể trong số 188 này, ngoài số qua đời còn lại có khá nhiều vị đã bỏ ra nước ngoài, bị bắt tù cải tạo. Đồng thời cũng có tới 400 cơ sở giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo của giáo hội ở đây đã bị mất (do tịch biên, nhà nước mới chiếm dụng), làm ảnh hưởng tới đời tu, phục vụ của nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ. Các vị này không còn môi trường, điều kiện thích hợp để phục vụ theo ơn gọi đặc biệt của mình, cũng không thể về phục vụ tại các giáo xứ đang thiếu người phục vụ, gắn bó với đàn chiên (vì thủ tục hộ khẩu vô vàn khắc nghiệt với dân thường, huông hồ gì linh mục tu sĩ).
Một số cơ sở vật chất của giáo hội công giáo tại Sài Gòn nay đã vào tay nhà nước như: Trụ sở tỉnh dòng Dòng Tên (số 161 Yên Đỗ, nay là Lý Chính Thắng) thành tòa soạn, nhà in báo Tuổi Trẻ; Trung Tâm Truyền Hình Đắc Lộ (Dòng Tên) nay thành Viện Nghiên Cứu Phát Thanh Truyền Hình; Học Viện Dòng Chúa Cứu Thế Thủ Đức nay thành bệnh viện Đa Khoa Thủ Đức; Lasan Tảbert nay thành trường Trung học Chuyên Trần Đại Nghĩa; Lasan Hiền Vương nay thành trường Trung học Lê Lợi; Lasan Mosard Thủ Đức nay thành trường Bổ túc Công Nông; Lasan Tân Định nay thành Trường Quản lý Cán bộ Thành phố; Trường Cứu Thế nay thành trường Trung học Kỳ Đồng; trường Nguyễn Bá Tòng nay thành trường trung học Phổ thông Bùi Thị Xuân; Trường Regina Mundi nay thành trường Lê Thị Hồng Gấm; Đại học Kinh Thương Minh Đức nay thành một khoa của Đại Học Kinh Tế; Dòng Thánh Phaolo một phần thành trường Sư Phạm Mẫu Giáo Trung Ương, một phần thành một khoa của Đại Học Sài Gòn; Khuôn viên Nhà thờ Đồng Tiến thành cơ sở sản xuất Quận 10 ..; Bệnh viện Saint Paul nay thành Bệnh viện Mắt Thành phố…
Săn bắt và hạn chế các ‘chủ chăn’
Linh Mục Phê Rô Đinh Ngọc Quế (Dòng Chúa Cứu Thế, DCCT)- đại tá tổng tuyên úy, và Linh Mục Louis Bertrand Cao Đức Thuận nguyên đại tá tổng tuyên úy, bị đưa đi “cải tạo” sớm cùng lúc với các linh mục tuyên úy và sĩ quan Quân Lực VNCH.

Rồi lần lượt, với nhiều lý do khác, chủ yếu là ngụy tạo (như tổ chức phản động, tàng trữ vũ khí, cất giấu đô la, vàng bạc), tới các vị linh mục khác cũng bị đưa đi “cải tạo”, nổi tiếng nhất có Linh Mục Trần Hữu Thanh (DCCT), Linh Mục Nguyễn Văn Vàng (DCCT), Linh Mục Giuse Nguyễn Công Đoan (Bề trên Giám tỉnh Dòng Tên Việt Nam), và một số Linh Mục Dòng Tên khác như Khuất Duy Linh, Hoàng Sỹ Quý, Linh Mục Giuse Nguyễn Tiến Lộc (Bề trên Đệ tử viện DCCT).
Chính quyền cộng sản nhanh chóng tìm cách trục xuất vị khâm sứ Tòa Thánh Vatican tại Sài Gòn, các linh mục thừa sai, đưa đi tù, như Đức Tổng Giám Mục Phancisco Nguyễn Văn Thuận;…; tạo cớ tấn công nhà thờ Vinh Sơn (quận 10) bắt tù Linh Mục Nguyễn Văn Minh; bắt bớ nhiều linh mục, tu sĩ Dòng Đồng Công. Linh Mục Chân Tín (DCCT) cũng bị đưa ra Cần Giờ an trí sau một loạt bài giảng sám hối vào mùa Chay Thánh năm 1983.
Chính quyền cộng sản cũng tìm cách dẹp bỏ các chủng viện là nơi đào tạo hàng ngũ linh mục, giải tán chủng sinh, đưa họ về với gia đình, các nhà dòng, tu viện nam nữ khác cũng trong tình trạng tương tự. Một số người có gia đình sinh sống tại Sài Gòn, cố gắng duy trì đời tu nhưng gặp nhiều khó khăn, vì phần lớn các linh mục giáo sư không còn được tập trung giảng dạy, cũng phải phân tán vì lý do hộ khẩu.
Khoảng hơn 10 năm đầu, các tu sĩ muốn tiếp tục “ơn gọi” đã phải tham gia phong trào lao động sản xuất. Đại Chủng Viện Thánh Giuse (nơi đào tạo linh mục cho hầu hết các giáo phận miền Nam), tổ chức các cơ sở đan lát các vật dụng mây-tre-lá, phần lớn đi lao động tại các nông trường kinh tế mới ở Củ Chi, một số ít khác phải gia nhập bộ đội, ra đời kinh doanh buôn bán lề đường xó chợ, đạp xích lô…, may mắn lắm là có chỗ nhận làm gia sư dạy sinh ngữ; một số ít khác hoàn tục lập gia đình.
Một cuộc tập kích đồng thời vào các học viện nơi đào tạo linh mục, tu sĩ của các hội dòng Đa Minh, Chúa Cứu Thế tại Thủ Đức đã làm tan rã phần lớn đội ngũ tu sinh ở đây và tất cả các cơ sở vật chất bị chiếm dụng.
Cuộc ‘giải phóng’ không thành!
Tưởng rằng với các biện pháp khốc liệt nhắm vào hàng ngũ nhà tu như thế, nhà nước “cách mạng” sẽ nhanh chóng “giải phóng” được giáo hội công giáo, vốn là một giáo hội được cho là chống cộng từ trong ý thức hệ tới các hoạt động cụ thể trong lịch sử từ trước cho tới tận sau này; nhà nước cộng sản cũng mong muốn làm tê liệt được các sinh hoạt của giáo hội như đã thành công phần nào tại miền Bắc xã hội chủ nghía trước 1975.
Thế nhưng điều đó đã không xảy ra tại miền Nam. Các tu sĩ bị buộc rời khỏi nhà dòng, chủng viện hay học viện là các nơi đào tạo chính quy, vẫn có nơi để duy trì ơn gọi và tiếp tục được đào tạo tại nhà riêng hay tại các giáo xứ có Cha giáo, tất nhiên phải âm thầm, lén lút..Họ chỉ có thể mỗi tuần vài buổi vào ban ngày, chiều tối lại phải trở về nơi có hộ khẩu. Đây là kiểu “tu chui,” vì tu bất hợp pháp!
Gần như trong suốt 10 năm đầu sau Tháng Tư, 1975, các hoạt động đời tu bị lắng đọng, không có các buổi lễ phong chức, khấn dòng trọng thể. Hầu hết các nhà dòng, chủng viện vắng vẻ, các tu sinh lưu lạc, một số ít vượt biên, số còn lại gắng theo đuổi ơn gọi và sứ vụ của mình một cách kín đáo; để đáp ứng nhu cầu chính đáng, nơi này nơi khác đã diễn ra các vụ phong chức “chui.” Chính tôi đã hơn một lần biết rõ trong căn phòng điều trị tại bệnh viện Saint Paul (nay là bệnh viện Mắt Thành Phố), Đức Cha Giacobe Huỳnh Văn Của (giám mục phó Phú Cường) trong lúc điều trị bệnh đã tiến hành phong chức như thế cho những tân chức linh mục của hội dòng này, giáo phận kia.
Đáng mừng là trong số khá nhiều vị được “chịu chức chui,” sau này đã có hai vị lên làm bề trên giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam.
Tôi còn biết rõ, một tu sĩ Don Bosco, đã là phó tế từ Hong Kong trở về Dalat và vướng lại đây cùng với mấy thầy khác nữa, phải cùng nhau về Liên Khương, rồi vùng kinh tế mới Long Thành lao động… mãi gần 20 năm sau, mới được giám mục Đà Lạt phong chức cho. Ngày phong chức bị dời đi dời lại vài lần, Cuối cùng, tới ngày chính thức thì chỉ còn có 1-2 người Thân trong gia đình ra dự, vì vẫn cứ sợ phút cuối nhà nước lại sinh chuyện.
Một tu sĩ khác thuộc Tu hội Tận hiến-Truyền giáo, cũng suốt 20 năm sống đơn độc trong một căn chòi giữa rẫy cà phê, sau mỗi giờ lễ sáng ở một giáo xứ vùng Bảo Lộc (ở đây có nhiều giáo xứ, nhưng không được phép sống với các cộng đoàn này). Chờ đợi và chờ đợi, tới ngày được chịu chức thì đã quá tuổi 60, tóc bạc trắng cả.
Ở giáo phận Nha Trang, có Thầy Nguyễn Chí Linh, sau này là Tổng Giám Mục Huế. Năm 1975 sau khi Giáo Hoàng Học Viện đóng cửa, thầy cũng lưu lạc về vùng Phan Rang lao động và chờ đợi, lâu ngày quá cũng bắt đầu thấy nản, nghe có giai thoại kể rằng Thầy đã muốn gia nhập phái “ta ru”, nhưng rồi bất ngờ được Giám Mục gọi về cấm phòng và cho chịu chức.
Còn các linh mục từng bị bắt bớ, đầy ải, sau nhiều năm trở về còn hoạt động mạnh mẽ kiên cường và hiệu quả hơn. Linh Mục Nguyễn Công Đoan sau hơn 10 năm tù về làm phó bề trên tổng quyền Dòng Tên Thế Giới, rồi giám đốc Học viện Kinh Thánh Giêrusalem. Tổng Giám Mục Phancisco Nguyễn Văn Thuận trở thành Hồng Y Chủ Tịch Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình tại giáo triểu Vatican, nay đã được giáo hội xét tuyên phong lên Bậc Đáng Kính.