Những chuyến đi của cuộc đời

Một góc Virginia (ảnh: Cao Trí)
Share:

Tôi thường đọc được ở đâu đó câu “Cuộc đời là những chuyến đi”, nhưng riêng với tôi những chuyến đi chỉ là một phần của cuộc đời. Cuộc đời có những chuyến đi ta dự định trước và có cả những chuyến đi thật bất ngờ. Có những chuyến đi ngắn hạn để rồi không lâu sau đó ta sẽ trở về điểm xuất phát. Có những chuyến mà khi bước chân ra đi, ta không thể biết được sẽ còn có ngày quay trở lại nơi chốn cũ hay không. Có những chuyến đi ngắn ngủi nhưng cũng đủ làm thay đổi suy nghĩ, thay đổi cách nhìn của ta về cuộc sống hàng ngày. Và có những chuyến đi đã hướng cuộc đời của ta sang một ngã rẽ khác.

C ùng với đại đa số người dân ở Sài Gòn cũng như miền Nam vào những năm cuối thập niên 1970 đầu thập niên 1980, gia đình chúng tôi luôn tìm kiếm cơ hội để thực hiện những chuyến vượt biên để đến bến bờ tự do. Mỗi một chuyến đi là một chương trong quyển sách cuộc đời của tôi, là một bài học góp phần cho mớ kiến thức để làm hành trang trên đường đời cũng như truyền lại cho con cháu sau này. Chuyến vượt biên bất thành năm 1979 đã cho chúng tôi một bài học tuy cay đắng nhưng thật giá trị. Chúng tôi biết được bộ mặt thật của gia đình người bạn thân thiết nhưng khi có cơ hội đã sẵn sàng phản bội lại mình.

Chuyến ra khơi năm 1981 đã cho tôi thấy mình nhỏ nhoi ra sao trước thiên nhiên. Nó đã cho tôi biết quý trọng mạng sống của mình khi sẵn sàng chấp nhận bị bắt để còn có cơ hội quay về lại với gia đình còn hơn phải bỏ xác nơi rừng hoang hay biển cả khi chuyến vượt biên bị thất bại. Những ngày tháng tù tội ở Năm Căn đã cho tôi thấy giá trị của hai chữ tự do quý giá đến mức nào. Cái giá của những ngày bị giam cầm tại Năm Căn còn là căn bệnh sốt rét đã khiến tôi sau đó phải nằm bệnh viện Chợ Quán một thời gian. Để từ đó tôi rút thêm được một bài học đáng giá nữa đó là ngoài tự do, sức khỏe cũng là một báu vật mà ta cần phải nâng niu và quý trọng.

Những chuyến tìm đường vượt biển liên tục trong khoảng thời gian đó đều kết thúc bằng việc tôi lại quay trở về mái nhà thân yêu của mình. Chỉ cho đến khi giấy tờ xuất cảnh cầm trong tay thì gia đình tôi mới chính thức thực hiện một chuyến đi “đổi đời”. Lần ra đi đó đã đưa cả gia đình chúng tôi sang một ngã rẽ mới tựa như dòng sông đời mình đã chảy qua một hướng hoàn toàn khác. Chuyến đi bắt đầu bằng những giọt nước mắt tiễn đưa tại phi trường Tân Sơn Nhất. Nước mắt của người ở lại thương nhớ người ra đi. Nước mắt của người ra đi xót thương cho người ở lại. Tâm trạng người ra đi trĩu nặng với quá khứ bỏ lại sau lưng và tương lai vô định trước mắt. Mặc dù biết trước rằng ra đi để tìm tự do nhưng liệu cái giá phải trả để đạt được ước mơ đó có quá lớn hay không?

Một việc ngoài ý muốn đã xảy ra đó là chuyến đi từ Việt Nam qua Mỹ của tôi đã phải mất sáu tháng trời. Ra đi từ Sài Gòn vào một ngày đầu Thu năm 1989 qua Bangkok đến Manila. Trải qua một mùa Đông xa xứ tại Morong, Bataan của Philippines để rồi mãi đến mùa Xuân năm 1990, tôi mới chính thức được đặt chân đến Mỹ quốc. Không biết rằng trong suốt thời gian đó có ai ngồi đếm từng ngày chờ đợi tôi như người thiếu phụ trong Chinh Phụ Ngâm Khúc năm xưa.

Không ai có thể giải thích cho chúng tôi biết vì sao tôi cùng một người chị phải tách khỏi gia đình để qua Phi thay vì được đi thẳng đến Mỹ. Mặc dù việc này đã làm chậm trễ thời gian tôi được hội nhập vào cuộc sống ở Mỹ nhưng quãng thời gian sống tại Bataan đã thêm vào quyển sách cuộc đời của tôi một chương đặc biệt. Tại đây tôi được trải nghiệm cuộc sống của trại tị nạn, nơi tôi đáng lẽ đã phải trải qua trước kia nếu một trong những chuyến vượt biên không bị thất bại.

Cũng tại Philippines, tôi được thực hiện giấc mơ gõ đầu trẻ của mình. Từ thời xa xưa có lẽ do ảnh hưởng từ một số truyện ngắn tôi yêu thích, tôi đã từng ao ước khi lớn lên sẽ làm nghề dạy học. Tuy nhiên đến năm lớp 12, khi phải chuẩn bị con đường tương lai của mình thì tôi lại quyết định không chọn ngành sư phạm. Và cho dù có chọn thì tôi cũng không có dịp thực hiện ước mơ đó vì ngay khi rời trường lớp, tôi đã phải khoác lên mình chiếc áo của người công nhân. Để rồi bảy năm sau tôi lại cởi bỏ chiếc áo người thợ máy đầy dầu nhớt và những miếng vá để thay bằng chiếc áo của người tị nạn.

D ạo đó tất cả những ai nhập trại đều phải gia nhập chương trình huấn luyện kéo dài khoảng sáu tháng trước khi được sắp xếp chuyến bay nhập cảnh vào Mỹ. Trẻ em nhỏ dưới 11 tuổi thì học chương trình đặc biệt của tổ chức World Relief. Trẻ em từ 11 đến 16 tuổi thì theo học trường PASS (viết tắt của chữ Preparation for American Secondary Schools). Chương trình ở đây gồm có Anh Văn, Toán và môn American Studies để chuẩn bị kiến thức cho các em hòa nhập với nền giáo dục của Mỹ. Từ 17 tuổi trở lên thì học các lớp Anh Văn và học về đời sống, văn hóa, xã hội Mỹ.

Thầy giáo phần lớn là người Phi, chỉ có một số ít người Mỹ, nhưng mỗi lớp đều có một trợ giảng người Việt làm công việc thông dịch. Khi vào trại, tất cả đều phải qua một lần kiểm tra, chủ yếu là đối thoại với nhân viên, để họ đánh giá khả năng Anh Văn và xếp lớp cho đúng trình độ. Những ai Anh Văn khá sẽ được chọn làm trợ giảng (assistant teacher – AT). May mắn cho tôi là tuy trình độ tiếng Anh lúc đó cũng không khá gì nhưng kết quả kiểm tra cũng đủ được chọn làm AT. Tất cả ai trên 17 tuổi đều phải học một buổi và buổi còn lại phải tham gia làm lao động ở tất cả văn phòng, cơ quan của trại. Điều kiện để có trong danh sách bay (đi định cư) là phải hoàn tất đủ tín chỉ các khoá học lẫn lao động công ích. Riêng đối với những AT chúng tôi thì ngoài buổi học chương trình đặc biệt dành cho AT sẽ là những buổi đứng lớp thông dịch cho các thầy giáo Mỹ hay Phi thay cho phần lao động.

Giấy chứng nhận hoàn tất chương trình huấn luyện ở trại tị nạn (ảnh của tác giả)

Chương trình học được điều hành bởi tổ chức International Catholic Migration Commission (ICMC) với ngân sách từ Bộ Giáo dục Hoa Kỳ. Việc phân phối các AT đứng vào những lớp nào là do ban điều hành của tổ chức ICMC thu xếp nhưng các AT có quyền đưa nguyện vọng của mình. Mặc dù nhiều anh chị cùng khóa AT né tránh không muốn đứng lớp của trường PASS vì theo họ vừa khó mà còn vừa phải đối phó với lứa tuổi nhất quỷ nhì ma nhưng tôi lại tự nguyện chọn chương trình này để thực hiện giấc mơ gõ đầu trẻ.

Tôi được chỉ định làm AT cho một anh thầy giáo người Phi có lẽ vừa tốt nghiệp đại học trẻ hơn tôi vài tuổi. Tôi đứng hai lớp buổi chiều cùng anh thầy giáo này. Một lớp do anh ta làm chủ nhiệm (homeroom teacher) và lớp kia do anh ta dạy môn Toán. Mỗi lớp chỉ có khoảng cỡ 15, 16 em đều ở lứa tuổi từ 11 đến 16. Trên nguyên tắc thì chúng tôi chỉ cần thông dịch những gì thầy giáo ngoại quốc giảng nhưng do chương trình của các lớp trường PASS có môn Toán nên tôi thường dùng kiến thức của mình dạy thêm cho các em chứ không hoàn toàn chỉ thông dịch. Sau này tôi đoán lý do nhiều người AT lớn tuổi có ý né tránh đứng lớp trường PASS có lẽ chính vì môn Toán này. Do Toán là môn ưa thích của tôi nên các em rất hứng thú khi được tôi giảng thêm bằng tiếng mẹ đẻ. Trong khi có một số AT, nhất là những người lớn tuổi gặp nhiều khó khăn khi phải thông dịch môn Toán.

Lá thư giới thiệu của trường PASS (ảnh của tác giả)

Cái may mắn của tôi là được làm việc chung với một anh thầy giáo trẻ tuổi nên ngoài giờ học thỉnh thoảng chúng tôi còn tổ chức những buổi ăn uống họp mặt cho các em học sinh vào những ngày cuối tuần hoặc dịp lễ. Đám AT chúng tôi hồi đó được hưởng nhiều ưu đãi từ ban điều hành. Chúng tôi được uống cà phê miễn phí thoải mái ở AT lounge trong giờ giải lao. Vào thời điểm hiện tại một ly cà phê chẳng có nghĩa lý gì đối với chúng ta nhưng với dân tị nạn khi ấy thì đó là một ân huệ lớn lao. Mỗi tuần chúng tôi được xem phim Mỹ một lần vào buổi tối vừa để giải trí vừa với mục đích luyện thêm tiếng Anh. Các dịp lễ như Noel, Tết, hay Valentine ban điều hành luôn tổ chức các buổi tiệc cho chúng tôi. Đặc biệt là tất cả AT của mỗi khóa đều được thu xếp để rời trại đi thăm Manila trọn vẹn một ngày.

Một ưu tiên nữa dành cho những người phụ giảng như chúng tôi là trước khi mãn khóa khoảng bốn tuần, chúng tôi không còn phải đứng lớp nữa mà thay vào đó là tập trung học chương trình cao hơn, ngoài Anh Văn còn được làm quen với máy vi tính, tập viết lý lịch cá nhân, v.v… Để thay thế chúng tôi, họ tuyển những người tình nguyện ở các lớp Anh Văn với trình độ khá làm AT cho mấy tuần cuối cùng của khóa. Trước khi chia tay, các em đã hùn nhau lại làm một bữa tiệc tiễn đưa tôi tại căn phòng của anh thầy giáo người Phi. Trong hoàn cảnh khó khăn ở trại tị nạn nhất là với lứa tuổi của các em thì tổ chức một bữa tiệc như vậy không phải là điều dễ dàng.

V à cứ như thế, Xuân sanh, Hạ trưởng, Thu liễm, Đông tàn, bốn mùa cứ trôi đi và cuốn tôi theo như những chiếc lá trôi bềnh bồng trên sóng nước. Chặng đường khởi hành từ Tân Sơn Nhất mùa Thu năm trước cuối cùng cũng đã kết thúc vào mùa Xuân năm sau tại phi trường của thành phố Charlotte tiểu bang North Carolina. Một chương mới trong quyển sách cuộc đời của tôi đã bắt đầu bằng hình ảnh một tên thanh niên ngày hai buổi đi bộ qua những con phố yên bình của thị trấn Belmont đến một nhà hàng steakhouse để làm công việc rửa chén bát, công việc đầu tiên được trả lương bằng đồng dollar Mỹ của tôi.

Cuộc sống của tôi ở North Carolina chỉ vỏn vẹn hơn một tháng. Vào ngày lễ Memorial Day, tôi dọn đến Virginia và cư ngụ tại đây cho đến tận bây giờ. Hơn ba mươi năm ở Virginia tôi đã trải qua nhiều nghề khác nhau bên cạnh việc quay lại với trường lớp, sách vở. Từ xếp cua vào dây chuyền chạy vô máy để cắt chân lột mai, điều khiển máy rung để lóc thịt cua, đổ gần trăm thùng càng cua mỗi ngày vào máy xay, cho đến đứng ủi quần áo ca tối, rửa chén bát ở nhà hàng trước khi kiếm được công việc hiện tại. Với quãng thời gian sống tại Virginia đã vượt qua khoảng thời gian tôi sống tại Sài Gòn nên chắc không một ai, kể cả những người khó tính nhất có thể trách khi tôi xem Virginia cũng là một quê hương của mình.

Chuyên viên kinh tế Bùi Đông Triều, người từng cư ngụ ở nhiều nước khác nhau trên thế giới trong thời gian cộng tác với những cơ quan tài chính của Liên Hiệp Quốc, Ngân Hàng Thế Giới, Ngân Hàng Phát Triển Á Châu, Ngân Hàng Phát Triển Phi Châu, v.v… trong bút ký của mình, đã đề cập đến một điển tích trong bài thơ Đường, về một người sinh ở Hằng Châu nhưng trưởng thành ở Tịnh Châu. Đến khi về già, người này chỉ còn nhớ đến Tịnh Châu mà quên hẳn đất Hằng. Để rồi tác giả bút ký phải thắc mắc đi tìm đất Tịnh cho riêng mình. Có thể nói tuy cùng mang kiếp tha hương như Bùi Đông Triều nhưng tôi đã may mắn hơn ông vì đã tìm thấy đất Tịnh cho mình ở vùng Đông Nam Virginia này. Nhưng chắc chắn một điều, không giống người trong bài thơ Đường, khi về già tôi sẽ vẫn luôn nhớ đến cả Sài Gòn yêu dấu của tôi.

Tất nhiên những chuyến đi góp vô trang sách cuộc đời của tôi không dừng lại ở việc định cư tại Virginia. Nếu như tôi đã coi Virginia như quê hương thứ hai để nhớ đến của mình thì liệu có những miền đất nào khác ở vùng đất hứa này khiến tôi bâng khuâng khi nhớ đến nữa hay không? Câu trả lời dĩ nhiên là có. Trên chặng đường tha hương, ngay ở nước Mỹ này có thể nói tôi đã có một đất Tịnh thứ hai trong lòng mà bấy lâu nay cứ ngỡ nó không tồn tại.

Một góc Virginia với bảng tên đường “Saigon” (ảnh: Cao Trí)

L ần đầu tiên tôi đặt chân lên vùng đất được mệnh danh là thủ đô của người Việt hải ngoại là vào cuối tháng Năm năm 1994, khi qua đó dự lễ ra trường của người chị. Vừa đặt chân xuống phi trường Los Angeles, tôi đã cảm nhận được một sai lầm trong suy nghĩ trước đây của mình khi cho rằng khí hậu California luôn luôn ấm hơn Virginia. Trời Tháng Năm ở Virginia với những ngày nhiệt độ có thể lên đến 90°F thì với chiếc áo sơ mi phong phanh mặc hôm đó tôi đã phải co ro trước những cơn gió buổi tối ở Los Angeles, khi nhiệt độ chỉ chừng xấp xỉ 60°F. Buổi trưa mùa Hè ở miền Nam Cali có nắng gay gắt nhưng sáng sớm và chiều tối lại gây lạnh khác hẳn với khí hậu Virginia. Từ đó hầu như năm nào chúng tôi cũng đều có những buổi họp mặt đại gia đình tại quận Cam.

Ngoài những giây phút thoải mái sum họp gia đình, nếu có ai hỏi điều gì tôi muốn tận hưởng nhiều nhất tại vùng Little Saigon mỗi khi có dịp ghé chân đến thì tôi xin trả lời đó là các nhà hàng Việt Nam với đủ các món ăn quốc hồn quốc túy mà khó có thể kiếm được ở vùng Đông Nam Virginia nơi tôi đang ở. Tuy nhiên cái khí hậu đặc biệt của vùng này mới chính là điều khiến tôi nhớ dai dẳng nhất.

Qua bao nhiêu lần ghé thăm vùng Little Saigon từ đó đến nay, tôi nhận thấy các nhà hàng có ít nhiều đổi thay, khẩu vị có thể khác đi một chút theo thời gian. Có nhà hàng mới mọc lên, có nhà hàng phải đóng cửa. Có nhà hàng mà năm trước ghé qua nổi tiếng một thời ai cũng rủ nhau đến ăn thì năm sau đã không còn nữa. Duy chỉ có khí hậu miền Nam Cali là vẫn không đổi thay. Vẫn những buổi trưa gay gắt nắng, buổi sáng sớm, chiều tối se se lạnh mặc dù đang giữa Hè. Thỉnh thoảng bất kể tôi đang ở Virginia hay đang du lịch hoặc đi công tác ở một thành phố nào khác trên đất Mỹ, bất chợt một cơn gió lành lạnh khô ráo thổi qua đều khiến tôi liên tưởng đến cái không khí đặc biệt của miền Nam Cali. Những lúc ấy trong thâm tâm tôi luôn nhủ thầm phải mau kiếm dịp để quay lại miền đất tấp nập này, để có dịp hít thở lại cái mà tôi gọi là không khí Cali. Như vậy chẳng phải Cali cũng là một miền đất Tịnh của tôi rồi sao? Thế thì đâu là đất Tịnh? Có lẽ bất cứ nơi nào chúng ta đã từng đặt chân tới, khiến mình lưu luyến nhớ đến và mong có ngày quay lại thì đều là đất Tịnh của mình.

Mỗi một chuyến đi đến một miền đất lạ đều có thể để lại dấu ấn trong cuộc đời tôi. Những miền đất lạ đó tựa như những trang sách mới góp phần mở rộng thêm kiến thức cho tôi như lần đầu được tận mắt chứng kiến cộng đồng người Amish trong một lần hãng gửi đến Ashland, Ohio để học. Giữa thế kỷ 21, khi mà phần lớn ra đường từ đứa bé đến người già ai cũng có chiếc điện thoại cầm tay để kết nối với thế giới bên ngoài thì vẫn còn có một cộng đồng sống giản dị từ cách ăn mặc như thời thế kỷ 18, 19 cho đến phương tiện di chuyển bằng những chiếc xe thổ mộ thì thật đáng ngạc nhiên và cũng khiến tôi khâm phục.

Một góc Bolsa (ảnh: Cao Trí)

Cũng tựa như trường hợp cái không khí đặc biệt của Cali, thỉnh thoảng trong đời sống hàng ngày có nhiều điều ngẫu nhiên xảy ra gợi nhớ đến hình ảnh về những nơi chốn tôi đã từng đặt chân qua, những ngày tháng cũ xưa giờ chỉ còn trong ký ức. Như một buổi sáng cuối tuần tình cờ thức dậy, nghe tiếng động lao xao của nhà hàng xóm lại nhớ đến những buổi sáng xa xưa thức giấc ở Sài Gòn nghe tiếng rao hàng quen thuộc của những người bán rong. Rồi một buổi tối mùa Thu Virginia gió se lạnh rùng mình lại nhớ đến những buổi tối nào ngồi uống cà phê bên bờ hồ Xuân Hương gió lộng.

Một cơn mưa rào ở đâu đó cũng khiến tôi liên tưởng đến trời mưa Tháng Sáu của Sài Gòn. Xem hoa anh đào nở rộ tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn lại nhớ đến cây đào năm xưa ở Đà Lạt. Những lúc ấy, tôi như đang ngồi lật lại từng chương trong quyển sách cuộc đời của mình để nghiền ngẫm lại những kỷ niệm xa xưa. Quyển sách giờ đây đã viết được quá nửa ghi dấu không biết bao nhiêu là những chuyến đi. Tôi hy vọng rằng mình sẽ có cơ hội tiếp tục viết vào những trang sách đó thêm nhiều chuyến đi khác nữa. Những chuyến đi kèm theo những bài học quý giá để quyển sách cuộc đời của tôi thêm phần phong phú trước khi hoàn tất để truyền lại cho thế hệ sau.

*****

Muôn nẻo đường đời (những chuyến ra đi và những điều kể lại) – cuộc thi do SGN tổ chức, với tổng giải thưởng gần $30,000. Bài vở xin gửi về [email protected]. Vui lòng xem Lời mời cuộc thi để biết thêm chi tiết. Thân kính.

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: