Thầy Tôi

Trăm năm một tàng cây cổ thụ
Thầy Doãn Quốc Sỹ (ảnh: Uyên Nguyên)

Chúng tôi hẹn nhau sáng ngày Thứ Tư để đến thăm cụ. Thực ra ở bên nầy những ngày cuối tuần mới tiện các việc đi lại hay tham dự vào các lễ lạc. Lâu dần thành quen. Làm gì hay kỷ niệm gì cũng đợi vào những ngày cuối tuần. Nhưng hôm nay chúng tôi chọn ngày Thứ Tư là do anh em muốn đến càng sớm càng tốt. Cụ năm nay đã gần 100 tuổi rồi mà chúng tôi cũng chỉ mới biết nhà cụ gần đây thôi, qua anh con rể của cụ.

Trời trong nắng rõ, đường phố xe cộ dập dìu, không thấy một bóng người đi bộ. Tôi tìm chỗ đậu xe bên lề đường hơi xa nhà cụ một đỗi. Đi dọc theo vỉa hè dưới những tàng cây lớn, bóng mát lan tỏa ra tới tận ngoài đường. Cảm giác thật rộn vui đầy phấn khích.

Anh Hiếu ra tận ngõ đón chúng tôi lần lượt kẻ sớm người muộn vào bên trong. Nhà bày biện đơn sơ. Ngay lối vào bên phải sát cửa sổ là cây dương cầm màu gụ đen bóng loáng, phía trên thấy có một bản nhạc còn mở ra để nguyên như vậy trên giá. Tôi sững sờ bước đi chậm lại, hơi rón rén khi nhìn thấy cụ đang nằm nghiêng quay mặt ra phía ngoài trên chiếc ghế salon dài bằng da màu đen. Anh Hiếu bảo: Ông cụ chỉ vừa chợp mắt.

Quanh phòng khách chỉ thấy treo mấy bức tranh vẽ chân dung các cô chú còn nhỏ, con của cụ. Giữa nhà, cạnh bộ ghế salon là một cái bàn nhỏ trên chưng mấy bức hình của gia đình trong đó có ảnh chân dung của cụ với lời ghi chú nhỏ không đọc được. Để không làm mất giấc của cụ, chúng tôi đi thẳng đến bàn ăn đặt giữa phòng ở phía nhà sau. Trên bàn trải khăn trắng đã bày biện sẵn chén bát muỗng đĩa và một số thức ăn nguội trông rất gọn gàng, đẹp mắt.

Thầy Doãn Quốc Sỹ (ảnh: Uyên Nguyên)

Yên vị chỗ ngồi quay lưng ra sân sau, mắt hướng về phòng khách, tôi nhìn cụ chăm chú, gương mặt thật thanh thản. Trước đây từng quen nhìn cụ luôn luôn qua đôi kính trắng có nụ cười hiền lành, nay nhìn hình ảnh bất động hết sức bình dị của một cụ già gần trăm tuổi đang ngủ, bất chợt trong lòng tôi dâng trào lên một niềm xúc cảm sâu lắng. Có phải đây là một nhân vật lừng danh trên văn đàn miền Nam Việt Nam ở thế kỷ thứ 20; một nhà mô phạm đáng kính, nhân hậu đối với nhiều thế hệ học sinh, sinh viên trước đây ở Sài Gòn; là người đã đoạt giải nhất, giải Văn Học Toàn Quốc cách nay hơn 60 năm về trước? Vâng phải, cụ là nhà văn Doãn Quốc Sỹ.  

Chị Liên, con gái thứ của cụ, mặc tạp dề hình bông tím nhỏ đang lui cui, xăng xái bên bếp để chuẩn bị bữa cơm khách. Đặc biệt chỉ gồm các món ăn thuần túy miền Bắc. Chị Liên nói vậy. Đậu phụ chiên dòn chấm tương Bắc. Chả trứng rán mỏng vừa khuôn đĩa nhỏ. Hai đĩa rau củ luộc và canh dưa chua. Vậy thôi. Đúng nghĩa là bữa cơm gia đình theo như lời mời từ tuần trước. Khi mọi người đã tề tựu đầy đủ, đến lúc đó anh Hiếu mới đến lay cụ dậy. Mời bố xơi cơm.

Cụ mặc chiếc áo ấm loại trấn thủ dài tay màu xám. Bố luôn thích mặc chiếc áo nầy kể từ ngày về thăm làng Cót. Anh Hiếu cho biết. Cụ bảo tên chữ của làng là Hạ Yên Quyết, Hà Đông. Sở dĩ có Hạ là vì còn có làng Thượng ở phía trên. Sau khi chào hết thảy mọi người, cụ ngồi xuống ở đầu bàn phía gần bếp để cho cô con gái giúp bố gắp thức ăn hoặc cắt nhỏ vừa miếng ăn cho bố.

– Mời các anh dùng bữa với gia đình. Cụ nói.

– Dạ. Xin mời Thầy.

Khách chúng tôi nói chuyện râm ran. Cụ vẫn tự nhiên ăn cơm trắng với thức ăn một cách bình thường. Không kiêng cữ gì cả. Không nói chuyện nhiều. Chỉ khi nào cô con gái hỏi thì cụ mới trả lời. Ngoài anh chị Hiếu-Liên, trong gia đình còn có người em gái của cụ cùng ăn chung với chúng tôi. Hai anh em dắt díu nhau di cư vào Nam năm 1954 và luôn sống cận kề nhau từ đó cho đến nay. Lúc ở Việt Nam cũng như khi sang đến Mỹ.

Gần xong bữa. Cụ vẫn ngồi đấy, vừa ăn món tráng miệng mà cụ ưa thích “tàu hủ, nước đường gừng”, vừa bắt đầu chuyện vãn với chúng tôi. Khi thì trả lời những câu hỏi, khi thì cụ chợt nhớ tới đâu nói tới đó. Giọng nói còn to, rõ ràng và khỏe mạnh. Điều đặc biệt là những câu chuyện cụ kể hay nói đều có thứ tự, lớp lang và khúc chiết. Thỉnh thoảng cụ còn đọc những bài thơ hay nói những giai thoại về nhạc phụ của mình là thi sĩ trào phúng Tú Mỡ, Hồ Trọng Hiếu. Đặc biệt là những câu thơ ghép theo vần, tên của các con. Các cụ ngày xưa đông con nhỉ.

Sau khi vợ chồng anh Hiếu dọn dẹp bàn ăn lại cho sạch gọn và mang trà, cà phê ra mời cả nhà thì những câu chuyên trao đổi với cụ mới thực sự bắt đầu. Cho đến tuổi nầy rồi, cụ vẫn còn làm việc. Không viết được, không còn nghe rõ và cũng không có giờ giấc nhất định, cụ luôn mang theo máy thu âm nhỏ đặt bên trong túi áo, cứ nhớ đến đâu hay nghĩ gì cứ nói tự nhiên một mình. Sau đó chị Liên sẽ đánh máy lại và in ra. Cụ vẫn thường hay nói “dạy học là nghề, viết văn là nghiệp.”

Bốn anh em chúng tôi từng quen biết và tiếp xúc với cụ trước đây ở các trường đại học. Sau khi du học ở Mỹ về, cụ phụ trách giảng dạy ở ba trường Đại học Văn khoa, Vạn Hạnh và Quốc Gia Sư Phạm Sài Gòn. Lần đầu tiên tôi tiếp xúc với cụ là ở trường Đại Học Vạn Hạnh, khi tôi tham dự Đại Hội Sinh Viên Phật Tử toàn quốc năm 1971.

Trong suốt buổi nói chuyện, chúng tôi thường đặt các câu hỏi, như thể không còn dịp nào để biết được nữa. Những câu hỏi đều liên quan đến những năm tháng tù đày của cụ. Cụ thản nhiên trả lời, không tỏ vẻ gì ngại ngùng về những câu chuyện như vậy. “Có khổ, nhưng cũng có cơ hội được sống và trải qua một cuộc đời như thế.” Cụ bị bắt trong chiến dịch truy lùng của Cộng sản năm 1976, bị gán cho là những tên “Biệt kích Văn Học.” Bốn năm sau, khi được thả ra, cũng là lúc cụ hoàn thành một tác phẩm được gởi ra nước ngoài và xuất bản tại Pháp.

Tháng Năm 1984 cụ bị bắt lại và lần nầy Cộng sản kết án tù 10 năm. Lúc ấy cụ đã ngoài 60 tuổi. Không ai hy vọng cụ còn sống để thụ án. Có một giai thoại trong tù là ngoài việc lao động hằng ngày của trại, buổi tối nào cụ cũng ngồi thiền. Tiếng đồn ra ngoài đến độ cán bộ trại cũng tránh không gọi khi cụ nhập thiền. Cụ nói không phải vậy. Nếu thông hiểu được nguyên lý “Thiền” thì không phải chỉ ngồi mới thiền. Ngay cả khi đang làm bất cứ việc gì hay sinh hoạt ở bất cứ chỗ nào mình đều có thể “Vào Thiền” được.

Và rồi cụ cũng sống sót để trở về. Đến năm 1995, khi được người con trai bảo lãnh đoàn tụ sang Mỹ định cư, cụ vẫn tiếp tục viết và sau đó xuất bản liên tục ba quyển truyện dài. Cuốn sau cùng đúng vào năm cụ 74 tuổi. Nghiệp văn là như thế. Văn phong đã đổi mới tuyệt vời sau khi đã ngụp lặn mấy mươi năm trong bể khổ trầm luân.

Năm 22 tuổi, cụ là một trí thức yêu nước tham gia phong trào Việt Minh kháng chiến chống Pháp giành độc lập cho nước nhà, nhưng sau đó vài năm, cụ nhìn thấy sự sai lầm, tàn ác của những người Cộng sản nên cụ từ bỏ hàng ngũ Việt Minh để trở về thành và hoạt động trong lãnh vực giáo dục, đồng thời cũng từ đó chọn cho mình một con đường mới để phục vụ đất nước, nhân quần. Cụ bắt đầu dạy ở trường Trung Học Nguyễn Khuyến, Nam Định vào năm 1951. Sau đó ra Hà Nội dạy trường Trung Học Chu Văn An cho tới năm 1954.

Sau khi di cư vào Nam, cụ vẫn tiếp tục dạy, ở trường Trung Học Hồ Ngọc Cẩn, và bắt đầu viết văn, làm báo. Năm 1956 tại Sài Gòn, cụ thành lập nhà xuất bản Sáng Tạo và phát hành một tạp chí văn nghệ cùng tên qui tụ những nhà văn, nhà báo nổi danh thời bấy giờ. Cụ thường nhắc đến bảy người trụ cột lúc ấy gọi là “Thất Tinh”, gồm Mai Thảo, Nguyễn Sỹ Tế, Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp, Duy Thanh và Ngọc Dũng.

Đến lượt anh Tiến đặt câu hỏi thì toàn hỏi về chuyện văn chương chữ nghĩa. Cụ tiết lộ, ngoài bút hiệu cũng là tên thật, lúc mới bắt đầu sáng tác, cụ chọn bút hiệu là Tô Giang Khách, nghe giống như nhân vật kiếm hiệp nhưng thật ra vì rất yêu mến dòng sông Tô Lịch ở Hà Nội nên cụ mới lấy bút hiệu như thế để nhớ về những kỷ niệm nơi ấy. Đối với cụ, mỗi giai đoạn sáng tác là một hành trình sống và chiêm nghiệm, trải dài theo những biến đổi của đất nước. Bây giờ đến tuổi nầy rồi chỉ còn nhớ lại chuyện cũ thôi.

Thầy Doãn Quốc Sỹ (ảnh: Uyên Nguyên)

Trước khi xong buổi cơm, tôi mạo muội nhắc lại vài kỷ niệm xưa, may ra cụ còn nhớ lúc cụ dạy ở Đại học Vạn Hạnh. Rất tiếc cụ đã quên hết. Chỉ có một điều duy nhất cụ còn nhớ là hồi ấy sinh hoạt văn học nghệ thuật ở đó rất sôi nổi, tràn đầy sinh khí, mang lại một luồng gió văn hóa mới cho miền Nam Việt Nam.

Trời đã xế bóng từ lâu, mọi người mãi mê trò chuyện quên cả ngày giờ. Đến khi cô em của cụ đứng lên xin phép về trước thì anh em mới sực nhớ bèn đứng lên chào từ biệt gia đình. Mọi người xin cụ nói ít lời để kỷ niệm buổi gặp gỡ hôm nay. Với dáng vẻ xúc động, cụ quay nhìn chúng tôi một lượt và trong ánh mắt đầy yêu thương, cụ trầm giọng bảo: “Hãy sống thanh bạch và làm lành”, như cụ đã từng bảo với các con của cụ như thế.

Khi chuẩn bị lên phòng khách chụp hình trước khi từ giã, tôi ra đứng sau lưng ghế của cụ, chỗ cụ ngồi dùng cơm hằng ngày, và chuẩn bị nắm tay cụ để chậm bước đi. Tình cờ tôi nhìn vào bức tường đối diện trước mặt, phía trên treo một bức sơn mài vẽ lập thể gần giống như tàng cây cổ thụ, màu sắc vàng óng ánh, bên góc trái bức tranh có hàng chữ nhỏ ký tên tác giả Doãn Quốc Vinh. Phía dưới bức tranh là một khuôn kính, lộng bên trong một tấm giấy màu hồng điều trên có ghi bài thơ tặng Thầy của một môn sinh, nhân sinh nhật lần thứ 90 của cụ.

Thầy chẳng cho gì ngoài ánh mắt
Lúc muộn phiền con chỉ thấy mây bay
Thầy chẳng cho gì ngoài giọng nói
Đượm tình người thành phấn trắng trên tay

Khi thầy cho thầy đã không hề biết
Con vô tình lúc nhận cũng chẳng hay
Nhưng con hiểu thầy đã cho tất cả
Vì tâm con bát ngát núi sông nầy.

Trên đường về, tôi miên man nghĩ ngợi. Thoáng chốc mà gần nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày thầy trò tan tác. Cụ vẫn còn đây dù không còn nhớ gì nhiều. Trong lòng tôi chợt nhớ về ngày xưa đã có lúc Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hóa thảo luận về việc thiết lập một Hàn Lâm Viện Văn Học Việt Nam tại Sài Gòn. Dù chưa thành hình và rồi thế sự đổi thay nhưng nhất định tên tuổi và đóng góp của cụ sẽ còn lưu lại mãi trong nền văn học nước nhà.

______________

Bài đã đăng trong Giai phẩm Xuân 2023 của Saigon Nhỏ phát hành ngày 19 Tháng Mười Hai 2022

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: