Văn chương là nơi người ta bịa, nhưng phải bịa có đạo đức.
Ở miền Tây Nam Bộ, ai nói dóc hay, người ta không chê. Trái lại, còn khoái: “Trời đất, nó nói dóc mà có căn nghen bà con!” – ý là tuy bịa chuyện, nhưng nghe lọt lỗ tai, bởi có dính dáng tới đời sống thiệt, tâm lý thiệt, người thiệt. Còn ai mà bịa tầm bậy tầm bạ, lấy giả gán lên thật, chắp nối ngớ ngẩn rồi đòi người ta tin, thì dân mình thẳng ruột ngựa gọi luôn: đồ ba xạo, hay nặng hơn nữa: ba đía.
Trong mấy năm gần đây, người ta ca ngợi Nguyễn Ngọc Tư như thể là người kế thừa tinh thần Sơn Nam, một nhà văn “nói dóc có căn” lừng danh. Nhưng nhìn kỹ, đọc kỹ, đối chiếu kỹ, thì tôi không thấy chút nào gọi là “có căn.” Cô Tư không kể chuyện như Sơn Nam. Cô bịa, nhưng là cái bịa vô gốc, vô cội, không có nền tảng hiện thực. Nếu nói ví von thì văn cô giống như tô bún bò… không có thịt bò!
Sơn Nam “dóc có căn,” Nguyễn Ngọc Tư “dóc không gốc.”
Cái hay của Sơn Nam là ông dựng chuyện từ đời sống. Ông không cần trí tưởng tượng kiểu bay qua trời, mà cần trí nhớ dày đặc như sình lầy mùa nước nổi. Ông kể chuyện xưa, chuyện cổ, chuyện ma quỷ, nhưng toàn gắn liền với tập quán, phong tục, tâm lý dân quê. Có bịa đi nữa, người đọc cũng tin vì thấy mùi khói đồng, nghe ra được cái lý lẽ của đất.
Chuyện kể, bác Hai – người dạy ông kể chuyện – từng đọc sách ông rồi gật gù: “Thằng này nói dóc, mà nghe được lắm! Nói dóc có căn.” Một câu đó đủ tóm cả triết lý văn chương miền Nam: bịa có đạo đức, tức là bịa nhưng không phản bội thực tế.
Còn Nguyễn Ngọc Tư? Cô trộn hư với thật nhưng không theo cách dân gian, mà theo kiểu lập lờ. Trong bài Xa Đầm Thị Tường, cô viết:
“Trực thăng địch không biết bắn phá đâu, chiều về quẹo lại Đầm xả bom đạn chơi vậy, không cần mục tiêu gì, bỏ xuống cho nhẹ lái…”
Xin lỗi nghen! Bom đạn mà đem quăng chơi cho nhẹ máy? Đây là chiến tranh hay cải lương? Viết kiểu này là không còn là nghệ thuật nữa, mà là thi vị hóa hận thù, dựng chuyện máu lạnh để tạo cảm xúc rẻ tiền.
Rồi trong Chuyện vui điện ảnh, cô viết một đoạn mà chắc ai đọc cũng hết hồn:
“Con gái đầu của bác bị thằng Nguyễn Lạc Hóa ở biệt khu Hải Yến moi gan, ăn thịt ngay trước mặt bác…”
Đây mà gọi là “ký sự”? Phim ảnh máu me còn có chừng mực, chứ lồng vào hồi ký cá nhân như vầy là mất hết giới hạn giữa phim và đời. Lối viết nửa đùa nửa thiệt đó chính là kiểu “gắp lửa bỏ tay người” – gắn cái ghê rợn của phim vào ký ức dân chúng, để người đọc tưởng như ngoài đời cũng vậy.
Chưa hết, Nguyễn Ngọc Tư còn có thói quen vẽ nên một miền Tây chỉ toàn tang thương. Ai cũng khổ, ai cũng buồn, ai cũng mất mát. Đọc mười truyện thì hết chín truyện u uất. Không có nụ cười, không thấy tia hy vọng. Miền Tây trong mắt cô giống như cái hố chiến tranh không đáy, cái nhà xác cảm xúc. Vậy thì còn gọi gì là “quê hương”?
Cái đó không phải là văn học nữa, mà là thẩm mỹ hóa nỗi khổ để bán chữ. Mà khổ một cách khuôn sáo, kiểu như nêm gia vị cay cho món ăn kịch tính – không thật, không cảm.
Hư cấu thì được, nhưng phải có căn. Không căn là gian!
“Ba đía” trong đời sống miền Tây là nói dóc chơi, kiểu “tui học chung với Lê Duẩn mà ổng học dở hơn tui.” Ai nghe cũng biết giỡn chơi. Nhưng nếu đem kiểu “ba đía” đó viết văn, rồi đem in, đem phát hành cả nước, cả quốc tế, thì đó không còn là nói chơi nữa – mà là lừa người đọc bằng cảm xúc giả.
Nguyễn Ngọc Tư chạy theo những “chất lạ,” “chất đau,” “chất văn,” mà quên cái “chất thiệt.” Viết văn mà không giữ được cái thật, thì văn hóa thành rác. Đọc Nguyễn Ngọc Tư, người ta thấy cô không viết để nhớ, không viết để sống, mà viết để xào, nêm, trộn – một món ăn chữ nghĩa mà mùi thì thơm, nhưng ăn vô đầy bụng và… đau gan.
Văn chương miền Nam, từ Sơn Nam trở xuống, có một tiêu chuẩn rõ ràng: bịa không phản bội sự thật. Bịa gì cũng được, nhưng không được dựng lên lòng căm thù. Bịa cái gì cũng được, miễn có căn cứ. Còn bịa vô tội vạ, bịa mà ép độc giả tin đó là thật, thì không phải nghệ thuật – mà là vu khống bằng chữ nghĩa.
Sơn Nam bịa ông già cúng cá sấu bằng rượu, người ta đọc nghe được – vì thấy gốc gác. Nguyễn Ngọc Tư kể trực thăng Mỹ thả bom chơi cho nhẹ máy, người ta nghe không vô – vì thấy bịa mà… xạo, mà vô duyên, bôi bác, mà không biết ngượng.
Nếu bác Hai của Sơn Nam còn sống, đọc văn Nguyễn Ngọc Tư, chắc ổng sẽ nhăn mặt, bỏ ống nhổ ra rồi nói:
“Con nhỏ này ba đía… Nói dóc mà không có căn. Không có căn, tức là dựng đứng để bán chữ cho bọn tuyên huấn Hà Nội!”
(Melbourne)