Ở đất miền Tây Nam Bộ, chuyện tình duyên không phải lúc nào cũng mượt như sợi tóc xức dầu dừa của em gái Bến Tre.
Gặp thời trái gió trở trời, có khi con gái đẹp như tiên vẫn bị… gả về rừng. Mà rừng đây đâu phải là rừng thơ mộng kiểu Đà Lạt. Rừng đây là Miệt Thứ, U Minh, rừng tràm, rạch dớn, chim kêu vượn hú, cá thì nhiều mà chồng thì lù khù như thàng Đậu!
Vậy mà ngày xưa, người ta chép lại câu ca dao nghe như lời ru em ngủ:
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Nhớ người áo trắng, khăn quàng vắt vai.”
Tui nghi ông chép nhầm. Phải chi ông nhớ kỹ một chút, chắc ông đã viết đúng là:
“Chiều chiều lại nhớ chiều chiều,
Nhớ người áo trắng khăn điều vắt vai.”
Hai chữ “chiều chiều” đứng đầu nghe như bị cà lăm, vậy mà hay đáo để! Cái nhịp ru đó, nó gợi lên một nỗi nhớ lặp lại hoài, không nghỉ – như má nhớ con đi lấy chồng xa, như vợ lính ngóng chồng biền biệt. “Áo trắng” đối với “khăn điều” – mới chỉnh. Chớ khăn quàng là quàng… lủm củm vô duyên. Mà “khăn điều” mới đúng thiệt! Màu điều là đỏ – cái màu của nỗi yêu, nỗi nhớ, nỗi máu tim rịn rịn mỗi buổi chiều.
Khăn điều vắt vai anh Hai đi ăn trầu là hình ảnh dân dã đẹp thiệt tình. Miệt mình hồi đó ai cũng ăn trầu: gái ăn, trai cũng ăn. Nhai trầu đỏ cả răng, đỏ môi, đỏ luôn… cái áo trắng. Có vậy mới sinh ra cái cảnh “say trầu phê phê,” “mắt em trong veo,” răng chắc như đá – bởi vôi trong trầu là loại… thuốc đánh răng thiên nhiên, có “fluor” sẵn cho người đồng bằng.
Nhưng thôi, đừng nói chuyện răng lợi nữa. Trở lại với cái câu ca dao “lỡ chép” kia. Nó còn bị chép trật kiểu khác:
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Nhìn về quê mẹ ruột đau chín chiều.”
Nghe “nhìn,” “ngó,” “trông” mà hổng thấm. Nó lạt như nước cơm không muối. Phải là “ngóng” mới đúng!
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngóng về quê mẹ ruột đau chín chiều.”
Chữ “ngóng” là chữ thần. Nó gợi một nỗi chờ mòn mỏi, như em ngóng chồng đi ghe chưa về, như mẹ ngóng con lấy chồng rồi biệt xứ, tết cũng chẳng về chúc má câu nào. Ngóng là nhớ có chủ đích. Ngóng là yêu sâu đậm. Ngóng là đau tới tận ruột.
Bởi vậy mới có câu:
“Muốn má ơi đừng gả con xa
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu?”
Nhà văn Sơn Nam chia miền Tây làm bốn miệt: miệt vườn, miệt ruộng, miệt giồng và miệt thứ. Mà miệt thứ là vùng U Minh, sông Trẹm – nơi rừng rậm um tùm, lá tràm rụng xuống nhuộm nước đen như nước mắm. Chỗ đó mới là “rừng” thiệt.
Vậy mà gái miệt vườn nhiều quá, nhà nghèo không nuôi xuể, nên cha mẹ gả con gái về rừng. Lấy chồng xa như gả thiếp về rừng, vừa là chia bớt gánh nặng, vừa là… bỏ của chạy lấy người! Đem em về rừng, em cười, má khóc. Anh nói lấy em là chuyện đời, em nghĩ theo anh là chuyện trời!
Mà anh đâu biết, em thương anh, nhưng thương kiểu… tình nguyện có điều kiện. Lòng em thì để lại miệt vườn, nơi có má em, nơi có mấy đứa em còn nhỏ. Em nói “chia ngọt sẻ bùi,” mà mới vài tháng đã ra đứng ngõ sau, “ngóng về quê mẹ ruột đau chín chiều” là sao?
Chuyện này đâu phải bịa. Nó là tâm tình của cả một lớp người thời lưu dân khẩn hoang. Từ Quảng Nam, Bình Định, ông bà mình lặn lội vô tới tận Đồng Tháp Mười, U Minh Hạ. Đẻ một bầy như “giặc Tàu Ô,” phải chia đất, chia ao, chia ruộng. Mà đất đâu đẻ kịp với tốc độ sanh sản? Vậy là mấy thằng con phải tự tìm đường khẩn đất mới. Lập nghiệp nơi đất đỏ phèn chua, xong rồi mới về miệt vườn cưới vợ, đem lên làm… nội trợ U Minh.
Thế là mỗi chiều về, trong khi chồng hút thuốc rê uống trà quạu, vợ đứng ngóng ra bìa rừng, mắt ươn ướt, lòng trống vắng. Ngóng như muốn… đi bộ về miệt vườn.
“Sương khuya ướt đẫm giàn bầu
Bậu về Miệt Thứ bỏ sầu cho qua.”
Câu ca dao thiệt thà như tấm lòng. Chẳng giấu diếm chi hết. Nó nói hết cái cảnh tình tan nát của một cô gái lấy chồng xa. Mà hễ xa nhà là… nhớ nhà. Nhớ không chỉ vì má thương, mà còn vì đời chồng chẳng như mơ.
Vậy mà đàn ông miền Tây mình thương vợ lắm. Cưới về rồi thì cày như trâu. Làm lụng sớm hôm, tiền bạc đưa hết cho vợ. Má mình thì lâu lâu mới được vài đồng về thăm, phần còn lại là “má hiểu mà, phải không má?” Nhưng mấy bà má cũng hiểu. Miễn con có vợ có con, không đói là má vui rồi.
Vậy mà vợ thì sao? Cứ chiều chiều lại nhớ má, nhớ tới độ “ruột đau chín chiều”! Nhớ kiểu đó mà kêu là hạnh phúc hả? Mấy ông chồng nghe thấy là buồn thúi ruột, thiệt!
Tui nói rồi, gả thiếp về rừng là vậy đó. Về rừng không chỉ là về không gian. Về rừng là bước chân vô một thế giới xa lạ, đầy rắn rít, muỗi mòng, thiếu thốn và… cô đơn. Nhưng nếu lòng nhau rộng mở, thương nhau đủ đầy, thì có khi “gả về rừng” lại là khúc mở đầu cho một bản tình ca đẫm khói lam chiều.
Chớ như em đứng hoài ngõ sau, “ngóng về quê mẹ ruột đau chín chiều” thì… anh buồn biết mấy!
(Melbourne)