Những lá thư tình Anh ngữ vỡ bể và ban nhạc ‘Marie Sến’

(Viết tặng riêng cho KTS Nguyễn Duy Dương)
(Hình minh họa: Pixabay)

Trong sách báo người ta thường nói “Năng khiếu là sự cố gắng lâu dài” hay Việt Nam chúng ta câu “Có công mài sắt có ngày nên kim.”

Những lá thư tình bằng Anh ngữ vỡ bể

Không biết với người khác ra sao nhưng với tôi đó chỉ là một lời sáo ngữ, sai lầm để đánh lừa hay kích thích, an ủi những người yếu kém bẩm sinh về một lĩnh vực nào đó mà thôi. Dĩ nhiên tôi không phủ nhận được sự cố gắng, chăm chỉ chắc chắn sẽ mang đến cho người ta một sự thay đổi ở một mức nào đó chứ không thể thành một kẻ tuyệt tài, vượt trội một cách khác thường được.

Cá nhân tôi, môn ngoại ngữ suốt đời tôi, mãi mãi là một chuyện u buồn!  Nó là một trong vài ba lĩnh vực mà tôi yếu kém nhất, dù tôi đã dành rất nhiều nỗ lực và đôi khi cả niềm đam mê  cho nó. Không phải vài ba năm mà có lẽ trải dài nhiều chục năm. Dĩ nhiên tôi cũng đã có tí chút thu thập nào đó, nhưng nhìn chung vẫn là một hiện tượng đáng thở dài của đời tôi. Nhưng một điều rất lạ kỳ, như có một đẩy đưa nào đó của định mệnh. Cuộc sống của tôi, khi còn ở Việt Nam hay sau này tha phương kiếm sống nơi hải ngoại, tôi lại có khá nhiều liên quan đến ngoại ngữ! Hoàn toàn không phải tôi muốn, mà thế thời làm cho tôi phải gần gũi và nương tựa vào nó trong cuộc sinh nhai, kiếm sống. Trong hoàn cảnh đó, không còn cách nào hơn, tôi đành phải tận dụng cái khả năng yếu kém của mình để tồn tại hay ít ra cũng tạm đủ ở mức tối thiểu trong công việc mà tôi có trách nhiệm.

Một điều khác cũng khó tin, đó là tôi chỉ yếu kém về ngoại ngữ nhưng lại hoàn toàn tự tin vào khả năng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Tôi không phải và cũng chưa bao giờ nói mình là một nhà văn là nhà thơ. Nhưng tôi tin chắc là tôi có đủ khả năng hiểu một bản văn xuôi hay một áng văn vần (dĩ nhiên bằng tiếng mẹ đẻ) một cách thông suốt với niềm đam mê của một người có trình độ trong văn chương, thơ phú. Có lẽ nhờ cái trình độ kha khá ngôn ngữ mẹ đẻ đó, nó đã phụ trợ cho cái sở đoản ngoại ngữ của tôi. Nhưng nó cũng đã đem đến cho tôi những câu truyện tiếu lâm đáng nhớ trong đời. Hôm nay, dù đang ở cái tuổi của một cụ già xấp xỉ 80, mái đầu gần như bạc trắng nhưng mỗi khi có dịp hàn huyên tâm sự với những bạn bè xưa cũ, nhắc và nhớ lại những câu truyện tiếu lâm về ngoại ngữ của tôi, vẫn là những khuấy động cho tôi và lũ bạn thích thú cười vang!

Có lẽ vào khoảng năm 1969 khi tôi đang là sinh viên năm thứ 2 hay thứ 3 đại học, hằng đêm vào khoảng 22 giờ khi rời khỏi thư viện Đắc Lộ, nơi mà tôi đến để có chỗ học hành. Tôi xách xe đi chở một vài cô gái bán bar cho các quán snack bars dành riêng cho các lính Mỹ tại Sài Gòn. Tại các khu vực trên trung tâm Sài Gòn, khu vực gần phi trường Tân Sơn Nhất, đường Trương Minh Giảng , đường Nguyễn Văn Thoại hay khu Khánh Hội. Công việc rất đơn giản, chuyên chở họ bằng xe Honda về nhà hay đến những nơi mà họ muốn. Đôi khi chở cả lính Mỹ nếu tìm được khách (dạng thức như xe ôm ngày nay, nhưng thời đó còn khác lạ và không nhiều).

Có lẽ, trong bất cứ công việc nào nhất là nó liên quan đến những hoạt động có khá nhiều mù mờ trong bóng tối đêm khuya, rất thường sẽ có những sự bi hài ẩn hiện trong một góc nào đó, dù ít hay nhiều, dù kín đáo hay hở hang. Đôi khi nó còn mang đến cho người ta sự chua xót, đắng cay. Công việc chuyên chở các cô gái bán bar Mỹ của tôi cũng vậy. Có những trạng huống xót xa, buồn bã. nhưng vẫn có những nụ cười ẩn hiện ở một góc kín đáo hay hở hang nào đó trong cái xã hội VN khá phức tạp của thời đạn lửa, chiến tranh. Ngày nay, cuộc chiến đã qua, những đoàn quân Mỹ GI đã không còn ở VN nữa. Quá khứ của thời bom đạn cũng đã bị nhấn chìm dần dần vào dĩ vãng gần 50 năm rồi. Nhưng mỗi khi gặp phải một kích thích nào đó, gặp gỡ nhóm bạn xưa cũ của tôi chẳng hạn. Chúng tôi nhắc lại nó như những câu truyện vui tình bạn, nhưng đôi khi cũng làm cho tôi hồi nhớ lại những chuyện cười vui trong ân hận, thở dài mà tôi vẫn cảm thấy ngỡ ngàng như là những chuyện khó tin.

Từ công việc chuyên chở đó, nhờ sự giới thiệu từ người này sang người khác trong cái thế giới rất lem nhem của những cô gái bán snack bar. Vô hình chung đã cho tôi được dịp len lỏi vào dù chỉ ở một góc nhỏ của cái thế giới khá phức tạp và cũng nhiều chuyện buồn cười của những cô gái bán bar Mỹ đó.

Hôm nay trong cái không gian lạnh lẽo, buồn tẻ của giữa đông Thuỵ Sĩ. Ký ức và cảm khoái viết lách. Tôi lại muốn dùng cái tài mọn chữ nghĩa, văn chương của mình để kể lể về một chuyện rất hài hước trong đời tôi. Đó là một công việc không giống ai của tôi trong quá khứ, một thời nhem nhuốc kiếm sống của đời tôi, đó là: Viết thư tình mướn bằng vốn Anh ngữ vỡ bể trong thời gian tôi chuyên chở các cô gái bán bar Mỹ để kiếm tiền ăn học và giúp đỡ gia đình.

Có lẽ nhiều người khó tin nếu tôi nói gần như phần rất lớn các cô gái bán bar Mỹ mà tôi quen biết, họ có thể nghe hay nói tiếng Mỹ một cách trôi chảy. Họ chửi nhau với các người lính Mỹ một cách rất hùng hồn không một tí khó khăn. Nhưng họ không thể viết nổi một lá thư, dù chỉ nửa trang giấy bằng Anh ngữ! Lý do rất dễ hiểu là tiếng Anh của họ rất nghèo, quanh đi quẩn lại chỉ có khoảng 50 hay 100 ngôn từ là tối đa. Những ngôn từ đó được lập đi lập lại hàng ngày trong quán rượu, trong phòng ngủ, trong tranh dành vật dụng bán mua với nhau. Cuộc sống và làm việc của họ hàng ngày chỉ quanh quẩn dưới dạng ngôn ngữ nói, rất nghèo từ ngữ, Những câu nói cụt cỡn không cần sự nối kết chuẩn xác với nhau như trong văn viết. Thêm vào đó, họ thuộc thành phần có trình độ giáo dục thấp kém trong xã hội, kiến thức thô thiển. Gần như hầu hết họ ra đi từ các vùng nông thôn hay khu dân cư nghèo khổ của thị thành. Họ làm sao có thể viết ra một bản văn bằng tiếng Anh phổ diễn cảm xúc, suy tư của họ đúng như họ muốn được. Ngay như trong ngôn ngữ tiếng Việt, ngôn ngữ mẹ đẻ, nếu bắt họ diễn tả cảm xúc về một cuộc hội ngộ với người bạn xa xưa.Có lẽ họ cũng không viết nổi một bản văn tiếng Việt đầy rẫy lỗi chính tả, chưa đủ nửa trang giấy! Tiếng mẹ đẻ VN như vậy thì tiếng Anh với họ còn bi thảm hơn rất nhiều.  Đó là lý do mà họ cần đến cái tài Anh ngữ dù vỡ bể nhưng lại giàu cảm xúc của tôi vậy.

Nhờ may mắn quen biết họ, tôi đã có một công việc làm rất nhàn nhã, mang đến cho tôi những món tiền công rất hoan hỉ. Điều rất đáng nói, cái công việc đó với tôi lại là một cảm khoái tột cùng. Không phải chỉ vì được tiền trả công nhiều, mà còn mang đến cho tôi cái cảm giác thích thú nữa. Lý do là tôi được đem vào những bức thư tình yêu bằng Anh ngữ (dù là Anh ngữ vỡ bể ) lối tả tình rất ướt át, lãng mạn của văn chương Việt nam. Cái lãng mạn, ướt át đó trong ngôn ngữ mẹ đẻ thì tôi có dư thừa và với khá nhiều tự tin.

Ban đầu khi mới bước vào cái dịch vụ viết thư tình bằng tiếng Anh trong cái khung cảm xúc của văn chương tiếng Việt. Thành thật tôi cũng có sự nghi ngờ vì nghĩ rằng cái lối viết lai giống văn hoá của mình, nghĩ rằng sẽ không hay và tôi sẽ phải rước lấy thất bại. Nhưng rất lạ kỳ, sự việc xảy ra hoàn toàn khác với sự lo lắng của tôi. Lá thư lai căng văn hoá và chắc chắn đầy lỗi văn phạm không chuẩn xác văn chương Anh ngữ của tôi, lại hoàn toàn không sinh ra phiền phức, chê bai từ người nhận (anh chàng Mỹ GI hay gia đình của anh ta tại Mỹ). Ngược lại nó còn được khen vì lá thư đã mang đến cho họ quá nhiều thích thú, cảm động. Họ không tiếc lời khen tặng cô người yêu Việt Nam của chính họ (khi họ đã trở về nước sau khi hoàn tất nhiệm vụ), hay của con trai họ là người có tâm hồn lãng mạn, rất đáng yêu, chung tình như vậy! Dĩ nhiên người nhận thư không bao giờ biết lá thư họ nhận được chỉ là tác phẩm viết mướn, mà kẻ viết mướn đó là tôi !Một thằng sinh viên với tài năng Anh ngữ đáng u buồn nhưng lại có quá nhiều cảm xúc trong tâm hồn….

Nhưng nếu là một lá thư (dù được viết thuê) mà nó chất chứa những lời tâm sự, tình cảm nhớ nhung, buồn bã, cô đơn vì xa cách…đúng nghĩa thì sẽ chẳng có gì để nói. Kẻ viết thư tình mướn như tôi sẽ không phải cười vang, thích thú nhưng rồi khi nghĩ và nhớ lại mà phải cúi đầu buông tiếng thở dài!  Bởi vì tất cả đều là giả dối, chỉ là ngôn từ không chân thật mà chính tôi đang làm một công việc của kẻ đồng phạm trong sự lừa đảo đó! Tôi viết ra đây một câu chuyện điển hình trong hàng chục câu truyện tương tự khác trong dịch vụ “viết thư tình thuê bằng Anh ngữ vỡ bể” của tôi cho một cô gái bán bar Mỹ. Tôi muốn chứng minh cho những dối trá trong công việc mà nó đã làm tôi áy náy.

Cũng như những lần viết thư mướn cho vài người khác, dĩ nhiên tôi cũng phải tìm hiểu tí chút về hoàn cảnh, về suy tư, tính toán, nhiều khi cả về xảo trá của người muốn tôi viết thư cho họ. Chính nhờ đó mà tôi biết khá rõ về những cô gái bán bar Mỹ. Những người đã thuê tôi viết thư cho những người lính Mỹ, bạn trai của họ và cả cho người mẹ, người cha, gia đình hay thân nhân của những người lính đó đang sống ở Mỹ. Thời gian của câu chuyện mà tôi viết trong bài tạp bút này đã được đẩy lui quá xa vào dĩ vãng. Cái dĩ vãng với quá nhiều bi đát và nhem nhuốc của một chiến tranh mà bất cứ ai, người Việt nam cũng như người Mỹ, ai ai cũng muốn quên đi, muốn đẩy lùi vào dĩ vãng bởi vì nó quá tàn khốc. Ngày nay, thời gian đã đi vào dĩ vãng quá xa rồi, nó đã tẩy rửa đi rất nhiều những nỗi băn khoăn, ân hận… Chẳng còn gì để tôi phải suy nghĩ đúng hay sai, vô luân hay đạo đức về cái nghề viết thư tình mướn nữa. Bởi vì sự xấu xa của nó quá nhỏ bé so với biết bao nhiêu sự tàn khốc của bom đạn, chiến tranh. Với tôi ngày nay, nó chỉ còn là một sự hoài nhớ về một công việc làm kiếm sống có tí chút hài hước trong đời tôi mà thôi.

Út Tư là tên cô gái, cái tên chỉ cần đọc lên thì ai ai cũng biết cô ta từ miền Nam sông nước. Vì một đưa đẩy hay hấp dụ nào đó Út Tư lên Sài Gòn kiếm sống, cũng giống như rất nhiều các cô gái quê khác, không học hành, không nghề nghiệp chuyên môn… Cuối cùng, bị vướng vào những bẫy rập của những kẻ buôn bán thân xác người dưới dạng thức gái bán Bar. Thật ra chỉ là bình phong che đậy hình thức “gái mại dâm” phục vụ cho những quân nhân Mỹ trong thời chiến tranh VN mà thôi. Sinh hoạt của Út Tư cũng như phần lớn các cô gái khác cùng nghề đều có một hình thức khá giống nhau. Buổi tối đến Bar làm việc, tiếp đãi và uống rượu với khách hay tiếp khách theo xếp đặt của chủ Bar hay nhóm bảo kê. Tiền thu được ăn chia theo tỷ lệ nào đó ngay tại cơ sở của Bar. Nếu có khách riêng thì dẫn về nhà hay một nơi nào đó “phục vụ” vào buổi tối hay ngoài giờ làm việc sau khi Bar đóng cửa. Ban ngày thì ngủ lấy sức để tối làm việc hay tụ tập đánh bài, hút hít (thời đó dạng chích, thuốc lắc… đã có nhưng chưa thông dụng như ngày nay.)

Đó là con đường sinh hoạt hàng ngày gần như rất giống nhau của phần rất lớn các cô gái bán Bar Mỹ. Nhưng đôi khi con đường phổ quát đó có một khúc rẽ dẫn họ vào một dạng thức khác có phần nhàn nhã và thoải mái, sung túc hơn. Út Tư đã may mắn vào được dạng thức đó. Chính ở cái khúc rẽ đó, Út Tư đã cần đến cái tài mọn viết thư mướn bằng Anh ngữ của tôi.

Trong thời gian làm việc tại Bar, Út Tư quen biết được một chàng lính Mỹ da đen tên Roland, lính không quân, phục vụ trong căn cứ Mỹ đóng tại phi trường Tân Sơn Nhất. Sau thời gian ngắn quen biết hai người về sống chung với nhau như vợ chồng trong một căn hộ 2 phòng, trên đường Trương Minh Giảng gần TSN. Một tổ ấm khá khang trang, đầy đủ tiện nghi như salon, TV, tủ lạnh, máy hát đĩa, máy thu băng. Dĩ nhiên tiền thuê nhà, mua sắm các tiện nghi, tiền chi tiêu ăn uống và cung phụng cho Út Tư đều do Roland chi trả.  Thông thường Roland đi làm rồi về nhà sống với Út Tư, thỉnh thoảng vì công tác Roland mới vắng nhà vài ba ngày mà thôi.

Cuộc sống của Út Tư an nhàn, sung túc hơn rất nhiều so với thời còn làm việc tại bar. Út Tư không còn phải bận rộn hàng ngày phải đến bar làm việc như trước nữa, chỉ ở nhà ngủ, cờ bạc và chờ Roland đi làm về như một người vợ chờ chồng. Mọi chi phí đều nhờ vào tiền lương hàng tháng của Roland. Hàng ngày ngoài việc ngủ, xem TV rồi tụ tập với các cô gái đồng nghiệp, cùng hoàn cảnh ăn uống và đánh bạc, hút hít heroin. Nhìn bề ngoài, tất cả những sinh hoạt, tiêu pha tiền bạc của những cô gái bán Bar như Út Tư đều do chính họ lựa chọn. Nhưng kín đáo ở đằng sau là những bẫy rập của những tổ chức do những tên ma cô điều hành mà các cô gái ngu ngơ, dại khờ không thể nhận biết được. Ví dù có nhận ra nhưng cũng chẳng có khả năng thoát khỏi cái bẫy rập khôn ngoan, ma mãnh đó được . Kết quả những cô gái bán bar hay vợ hờ của các chú GI đều rơi vào vòng xoáy của khốn khổ, nợ nần! Út Tư cũng vậy, dù sống với Roland, an nhàn, thu nhập an định hơn so với các cô gái khác, nhưng vẫn phải lén lút tiếp khách kiếm tiền trả nợ mỗi khi Roland không có nhà hay bận công tác vắng nhà vài ba buổi.

Roland hoàn toàn không biết gì về sự phản bội của cô bạn gái mà mình chung sống như vợ chồng. Anh ta luôn luôn nghĩ rằng mình đã may mắn có được một người yêu lý tưởng. Tiền lương hàng tháng cũng như những quyền lợi của một quân nhân Mỹ phục vụ nơi chiến tuyến như mua hàng giá rẻ PX, phụ cấp sinh sống ngoài doanh trại đều được anh ta cung ứng cho Út Tư. Anh ta còn gửi thư, hình ảnh cuộc sống chung của anh ta với Út Tư về cho gia đình bố mẹ tại Mỹ. Kể lể về “tánh tốt” của cô bạn gái cùng với niềm vui hạnh phúc của mình tại VN. Rồi bố mẹ Roland viết những lá thư thương yêu kèm theo quà tặng cho Út Tư, người yêu “tuyệt vời”  của thằng con trai mình tại VN. Với những lá thư tình cảm như vậy, Út Tư dĩ nhiên phải trả lời để có nhiều quyền lợi hơn. Chính vì nhu cầu đó, tài năng viết thư mướn của tôi được Út Tư sử dụng, tôi phải viết trả lời những lá thư của Bố mẹ Roland từ Mỹ gửi sang.

Dĩ nhiên trong vai trò của một kẻ viết thư mướn, tôi không thể viết khác được những gì mà người thuê muốn tôi viết cho họ (dù trong lòng tôi có tí chút băn khoăn vì nó hoàn toàn không thật). Dù trình độ Anh ngữ của tôi còn khá giới hạn nhưng tôi lại có tí tài năng biết dẫn dắt đối tượng nhận thư vào những cái khéo léo thích thú, cảm động của văn chương của xã hội, con người VN. Với giúp đỡ của những cuốn tự điển và một tí văn phạm tôi đã viết thay cho Út Tư những lá thư tràn đầy ý tưởng trong sáng, yêu thương, chung tình với Roland. Những lá thư đó vượt đại dương đến Mỹ, đã làm cho bố mẹ Roland cảm mến và tự hào về cô bạn gái của đứa con trai của họ nơi xứ lạ quê người.

Đúng như vậy, trong những lá thư viết mướn, không thật đó, tôi dẫn họ vào cái văn hoá đẹp đẽ của người vợ thương yêu, kính trọng chồng trong mái gia đình Đông phương. Tôi mô tả hình ảnh người cha dưới mắt của những đứa con là biểu tượng của sự vĩ đại, oai nghi đáng kính phục như một ngọn núi. Với người mẹ thì lòng thương rộng lớn bao la hiền hoà như đại dương. Trong tình yêu với Roland, tôi kể lể cho bố mẹ anh ta về những kỷ niệm đẹp lúc mới quen, lo lắng và nhớ nhau lúc Roland vì nhiệm vụ mà phải đi công tác xa nhà.

Đại khái những lá thư tôi viết thuê cho Út Tư như vậy. Kết quả là Út Tư đã nhận được những lời khen có cánh cùng sự tự hào tràn đầy trong những lá thư hồi âm của bố mẹ Roland gửi đến cho Út Tư. Đôi khi ông bà còn gửi tiền cho thằng con trai yêu mến, thúc dục nó phải mua quà tặng làm kỷ niệm cho cô bạn gái đẹp đẽ, tốt lòng và giỏi văn chương của nó bên kia bờ đại dương xa tắp. Còn về phần tôi, kẻ viết thư mướn, với những bức thư quá thành công như vậy, dĩ nhiên tôi nhận được tiền công nhiều hơn mức quy định rất nhiều. Đơn giản là vì nó đã mang đến cho Út Tư nhiều mối lợi hơn mong đợi.

Rồi cứ thế cô gái này nói với cô gái khác về tài năng viết thư mướn quá hay của tôi, nhờ vậy tôi có nhiều khách hàng hơn. Việc viết thư mướn của tôi không chỉ đóng khuôn vào một chủ đề, một mục đích mà nó bao quát rộng lớn hơn. Có lá thư tôi viết cho một cô bạn đồng nghiệp của Út Tư, cô ta có một anh bạn trai Mỹ, hết nhiệm vụ và đã trở về Mỹ nhưng vẫn còn liên hệ với cô ta. Trong lá thư tôi viết để cho cô ta gửi cho anh lính Mỹ, tôi nhắc lại những ngày tháng hạnh phúc mà anh ta đã mang lại cho cô khi cả hai còn sống bên nhau tại Sai gon. Dù xa nhau nhưng cô ta vẫn giữ gìn những kỷ vật của anh ta tặng ngày xưa như những dấu tích vô giá của mối tình đẹp, đáng nhớ trong suốt đời của cô ta. Nhưng cũng chỉ toàn là những câu văn dối trá! Không thật (mà tôi là tác giả). Thật ra những kỷ vật đó đã đi theo những con bài đen đỏ từ lâu, ngay khi anh ta về Mỹ rồi!  Cuối cùng với những than van cô ta xin anh ta giúp đỡ tiền bạc vì đang rơi vào hoàn cảnh khó khăn!

Rồi một lá thư  khác, tôi viết cho một cô gái khác. Kể lể về kỷ niệm đẹp đẽ, mặn nồng của những ngày tháng bên nhau, những ngày tràn trề hạnh phúc, hình bóng anh ta gần như lúc nào cũng hiện diện trong trí nhớ và trong tim cô ta.Cuối cùng với một lối văn nhẹ nhàng mong chờ từ anh ta gửi những giấy tờ cần thiết từ Mỹ sang để hoàn tất việc kết hôn cần thiết cho việc đi Mỹ định cư của cô ta. Tôi đã làm khá trôi chảy tất cả, dù tôi biết chắc chắn là trong những lá thư tôi viết bằng tài Anh ngữ rất giới hạn của tôi (theo đúng đơn đặt hàng) vẫn đầy rẫy lỗi lầm về văn phạm, toàn là những điều dối trá, vô luân. Nhưng biết sao khi cuộc đời vốn dĩ vẫn tiềm tàng những hạt mầm của gian trá, buồn nôn mà tôi chỉ là hạt bụi trong cơn gió bão phong trần!Nếu tôi không làm thì chẳng khó khăn gì để các cô gái đó tìm một người khác làm cho họ.

Tôi viết thư mướn bằng Anh ngữ như vậy kéo dài khoảng gần một năm trời trong đời sinh viên của tôi. Trong khoảng thời gian đó, tôi viết cho Út Tư nhiều nhất, đặc biệt trong khoảng 4 tháng trời khi Roland phải lên Pleiku công tác. Đây cũng là một chuyện buồn làm cho tôi suy nghĩ và ăn năn nhiều nhất. Ngay tuần lễ đầu tiên khi Roland đi công tác, Út Tư suốt ngày từ sáng đến đêm vùi đầu vào cờ bạc và thuốc phiện. Kết quả nợ nần không có tiền trả nợ nên cô ta bán dần đồ đạc, tủ lạnh, TV, cassette mà Roland mua trước kia. Nhưng cũng không đủ trả cho lũ ma cô nên cô ta chẳng ngại ngần, cùng với vài cô gái khác tiếp khách ngay tại nhà, nơi mà cô ta và Roland từng sinh sống với nhau như vợ chồng.

Chính trong hoàn cảnh cô ta thiếu thốn tiền bạc cung ứng cho cờ bạc, heroin đó, tôi lại có nhiều việc làm hơn cho Út Tư. Cô ta nhờ tôi viết một vài lá thư tình yêu toàn là những câu văn tả tình thắm thiết, thuỷ chung hay nhớ thương nhau ngày đêm vì xa cách, gửi đến Roland ngoài chiến trường. Đã thế cô ta còn dựng đứng lên một vở kịch bị trộm vào nhà lúc đi vắng, quét sạch máy móc, dụng cụ âm nhạc, TV và cả sợi dây chuyền kỷ vật của bố mẹ Roland mua tặng. Cuối cùng là những lời than van, khổ sở và chờ mong Roland giúp đỡ.

Thế là chỉ sau một tuần lễ anh chàng GI, lính Mỹ dại khờ mới lớn Roland, tìm cách nhờ người bạn cùng đơn vị có dịp trở lại Saigon mua trả góp tại PX những món đồ mà Út Tư bị “trộm”. Dĩ nhiên Roland cũng gửi tiền cho cô ta sinh sống và còn hứa sẽ viết thư về cho bố mẹ tại Mỹ mua món quà khác đền bù cho sợi dây chuyền mà Út Tư bị “mất cắp”. Dù biết là mình đang đóng vai trò của một tên đồng phạm trong lừa đảo, gian dối nhưng biết làm sao hơn khi vị trí của tôi cũng chỉ là người viết thư mướn! Họ trả công thì tôi phải làm như họ muốn mà thôi. Tôi không làm thì cũng có người khác làm. Huống chi món tiền thuê viết thư đó không hề nhỏ và luôn luôn cần thiết cho sinh hoạt của chính tôi và gia đình. Nghĩ như vậy, tôi lại đóng đúng vai trò của một người viết thư mướn dù lòng mình không vui.

Tôi cứ tưởng mọi việc sẽ trôi chảy theo tính toán và sẽ không có gì xảy ra cho đến ngày Roland hoàn tất công tác, trở về lại Saigon. Rồi cuộc sống và sinh hoạt của Út Tư sẽ trở lại khuôn mẫu ngày xưa ( dù cái khuôn đó vẫn chứa đầy gian trá, lừa đảo). Nhưng một bi kịch đã xảy đến! Một người bạn Mỹ cùng đơn vị với Roland cho biết Roland đã bị chết trong một đêm phi trường Pleiku bị pháo kích! Với tin thật buồn đó, có lẽ điều Út Tư tiếc rẻ nhất là những món quà và tiền lương tháng của Roland chưa kịp lãnh để gửi cho cô ta dùng trả nợ cho bài bạc và heroin. Út Tư vẫn bình thản, không một tí đau xót ! Ý nghĩa của chữ “tình yêu” với cô ta hoàn toàn không có thật, nó chỉ là một truyện thần thoại dành riêng cho những kẻ khù khờ như Roland, một tên lính Mỹ 20, 21 tuổi mà thôi. Sau đó không lâu, Út Tư lại trở về vị trí cũ của một cô gái bán Bar như ngày xưa. Ban ngày đánh bạc, nghiện hút hay ngủ lấy sức để làm việc ban đêm và hy vọng may mắn sẽ lại đến, lại có một kẻ dại khờ nào đó như Roland nhập cuộc để cho cuộc đời của cô ta lại nhàn nhã hơn, sung túc hơn để tiếp tục bài bạc và hút hít.

Từ đó tôi không còn dịp để viết thư mướn cho Út Tư nữa vì cô ta trở về với vị trí của một cô gái bán bar bình thường. Hàng ngày đến bar làm việc dưới sự xếp đặt hay chia chác tiền bán thân cho những chú GI vì một lý do nào đó, họ đến Bar tìm vui chốc lát rồi lại ra đi. Với công việc đó, Út Tư không còn có nhu cầu viết và gửi thư cho ai nữa. Nhưng tôi thì vẫn vẫn kéo dài cái công việc không giống ai đó với những lá thư “Anh ngữ vỡ bể “ đó cho vài ba cô gái khác khoảng nửa năm thì chấm dứt. Đó là khi tôi đã tìm được hướng làm ăn khác, trong thanh hơn và nó  liên hệ đến chuyên môn việc học của tôi.

Để kết luận, tôi xin kể ra đây một đoạn đối thoại của Út Tư với nhóm cô gái cùng nghề nghiệp trong một lần họ ngồi quanh chiếu cờ bạc. Khi nghe Út Tư đề cập đến Roland, một cô bạn cười và nói:

-Ôi cái thằng đen và hôi ấy, mày nhắc đến nó làm gì cho mệt!

Út Tư cười, bình thản trả lời:

-Nó đen nhưng đồng tiền của nó cho tao lại đỏ hay xanh thế là thích rồi. (ý nói dollar đỏ và dollar xanh)

Câu trả lời của Út Tư đã làm cho tôi trầm tư suy nghĩ, đưa mắt nhìn những bàn tay móng vuốt đỏ chót, khuôn mặt nhem nhuốc phấn son của những cô gái đang mê say quanh chiếu bạc. Tôi mỉm cười và nói thầm: “Chẳng biết những đồng tiền từ bàn tay, từ khuôn mặt đầy son phấn của họ đã trả tiền viết thư mướn cho tôi có màu sắc hay mùi vị gì không. Nhưng chắc chắn, với tôi nó sẽ không phải là đồng tiền bẩn. Nó sẽ được tẩy rửa để được sử dụng vào một chỗ có ý nghĩa và tự hào hơn! Tôi làm sạch những đồng tiền dơ bản đó bằng những sự tiêu dùng trong sáng, có lý tưởng của một con người hữu ích cho xã hội.”

(Hình minh họa: Pixabay)

Những lá thư tình viết mướn và ban nhạc ‘Marie Sến’

So với bạn bè cùng lứa, cuộc sống của tôi không êm ả, nó có chút sóng gió hơn, nhất là thời ấu thơ và thời gian còn đi học. Nhưng tôi lại có khá nhiều may mắn, chẳng hạn tôi có một ông bố, bà mẹ tuyệt vời. Tôi có những người bạn thân thiết, chân tình và rất dễ thương. Một trong những người bạn thân thương đó là Nguyễn Duy Dương. Ngay sau khi tốt nghiệp tú tài, tôi và Dương rủ nhau ghi tên vào phân khoa kiến trúc nhưng vì hoàn cảnh của tôi quá tệ, không có điều kiện cho việc học (cần văn phòng KTS đỡ đầu để thực tập) nên tôi đã phải chuyển qua phân khoa Khoa Học (chứng chỉ MPC) nhưng cuối cùng ngành Nông Nghiệp là của con đường tiến thân của tôi.

Dù khác phân khoa nhưng tôi và Dương cũng như một vài người bạn khác vẫn thỉnh thoảng gặp nhau, ăn nhậu, cà phê quán cóc, nói chuyện tầm phào hay đùa nghịch với nhau. Dương là một dạng người mà hầu hết các bạn rất mến. Cá tính vui nhộn, nói chuyện, pha trò rất có duyên, đậm chất khôi hài. Mỗi lần bạn bè gặp nhau, có Dương là không khí ồn ào đầy tiếng cười vui,  mọi người không ai muốn rã đám. Trong bài tạp bút này, có lẽ sẽ thiếu sót nếu tôi không dành vài đoản khúc văn chương viết về Dương. Người bạn đã ghi sâu vào ký ức của tôi và tất cả bạn bè khi nói về những “áng văn chương rất sến” của tôi trong những lá thư viết mướn đó.

Lần đó, có lẽ vào khoảng năm 2000 khi tôi về VN, chúng tôi lại gặp nhau trong một quán cà phê vùng Q. 2 Sài gòn. Khi tôi nhắc đến những kỷ niệm buồn vui trong công việc “viết thư tình mướn“ thời sinh viên của tôi. Với dáng điệu bình thản, nụ cười hóm hỉnh trên môi, hướng ánh mắt nhìn tôi, Dương chậm rãi nói:

-Cậu nói về những lá thư tình viết thuê của cậu, mình mới nhớ ra một hôm trên đường đến nhà cậu, định rủ cậu đi uống cà phê.  Chẳng biết sao khi gần đến nhà cậu thì cái Vespa thổ tả của mình nó làm reo không chạy dù mình đã làm đủ mọi thủ thuật. Cuối cùng đành phải đem nó vào một tiệm sửa xe ngay gần đó. Trong khi ngồi chờ sửa xe, mình chợt thấy ngay gần chỗ mình ngồi có một cái vòi nước công cộng, với khoảng 10 người gánh nước thuê, trai có, gái có. Một cô trong nhóm, tay trái cầm một xấp giấy lên đọc to cho cả nhóm nghe với vẻ rất thích thú. Tay phải, cô ta cầm khúc củi gõ vào cái thùng để sát dưới chân như muốn hoà điệu cùng lời đọc của mình. Những người gánh nước khác cũng vậy, họ nhảy múa như điên cuồng. Tay họ cũng cầm những khúc củi gõ vào những chiếc thùng tạo những âm thanh chói tai nhưng rất hoà hợp với tiếng gõ và lời đọc của cô gái.

Nói đến đây, Dương dừng lại một lúc. Cũng vẫn với nụ cười hóm hỉnh có cái gì đêu đểu trên môi. Dương nhìn tôi rồi nói kể tiếp:

– Ngồi nhìn họ ồn ào, vui thú như vậy, mình thắc mắc tự hỏi, cô gái kia đọc cái gì mà làm cho họ thích thú, kích động như vậy? Quá tò mò, mình đứng dậy, chậm rãi đi đến gần họ, lắng tai nghe một lúc mới biết là cô gái đang đọc những lá thư viết về tình yêu. Đến gần hơn, lắng  nghe kỹ hơn…. mình có cảm tưởng như ngôn từ và cả văn phong rất quen thuộc, nó rất giống lối viết văn của cậu! Mình đến sát cô gái hơn, ghé mắt vào xem thì đúng là những bản chụp của những bức thư tình yêu mà cậu đã viết thuê cho ai đó! Quá thích thú, mình chờ cho cô gái đọc xong tất cả xấp thư, không ai còn gõ thùng, nhảy múa nữa. Mình hỏi cô gái, ở đâu cô ta có những bản chụp của những lá thư này? Ngước mắt lên nhìn mình thoáng chút vui mừng, có lẽ cô ta nghĩ vừa tìm thêm được một kẻ đồng điệu. Hoan hỉ, nhìn mình cô ta trả lời: “Em đã chụp lén xấp thư của cô bạn cùng gánh nước mướn với em đó! Cô bạn em đã phải trả khá nhiều tiền cho người viết những lá thư này.” Nói xong cô gánh nước đưa mắt nháy mình một cái rất có duyên, rồi nói tiếp: “Anh có thấy những lá thư này quá hay không? Có lẽ nếu em tìm được một mối tình, một người yêu em, em cũng sẽ phải nhờ anh ta viết cho em những lá thư tình ướt át, lãng mạn như thế này mới được.”

Nghe cô gái gánh nước nói xong, mình cũng nhìn lại cô ta và cũng nháy mắt đưa tình với cô ta một cái trả lễ. Rồi mình lẳng lặng bước lùi, quay mặt đi về tiệm sửa xe trong khi cô gái đờ đẫn nhìn theo mình với tí lạ lùng! Đến chỗ sửa xe, mình dắt chiếc xe ra nổ máy đi về nhà, không đi tìm cậu nữa vì đã có một niềm vui rồi thì cần gì uống cà phê cho tốn tiền!

Cuối cùng Dương cười vui, đưa tay vỗ nhẹ lên vai tôi vài cái và hả hê kết luận:

-Cậu tài thật! có lẽ cậu chẳng nên học hành thêm gì nhiều cho mệt và tốn kém! Cậu chỉ cần mở một văn phòng “chuyên viết thư tình mướn “chắc chắn tiền thu nhập sẽ cho cậu một cuộc sống vinh quang rồi!

Nghe hắn nói, tôi tức muốn sùi bọt mép, nhưng nghĩ cho cùng lời nói của hắn cũng có lý. Bởi vì những lá thư tình viết mướn của tôi, ít hay nhiều nó vẫn có cái gì là lạ mang sắc thái của loại văn chương mà người ta thường tìm thấy trong các tuồng cải lương!

Rồi một câu chuyện khác, cũng liên hệ đến cái “tài viết thư tình mướn “ của tôi mà Dương cũng là người đưa nó vào kỷ niệm tình bạn của chúng tôi. Đại khái câu truyện như sau:

Một lần tôi ghé vào tiệm may Nhân, để tìm Dương, chủ nhân của tiệm là chị gái của Dương và cũng là tên của chị,  trên đường Phan Đình Phùng (sát cạnh ngã tư Lê văn Duyệt –Phan đình Phùng). Chị Nhân là một người phụ nữ duyên dáng, sang trọng, hiền hậu rất dễ mến. Không gặp được Dương, nói chuyện với chị Nhân tí chút rồi tôi chào chị rồi ra về. Không biết lủng củng ra sao, tôi để quên xấp “thư tình viết mướn” của tôi tại tiệm may. Mấy ngày sau, Dương đến tận đại học tìm tôi. Chúng tôi kéo nhau vào quán cà phê lẹp xẹp trong khuôn viên của đại học,  rồi Dương nhìn tôi với nụ cười thích thú, kể cho tôi nghe một truyện như sau:

-Hôm qua chị Nhân có nhờ mình đem trả lại tập thư tình viết mướn cho cậu. Nhưng đúng lúc có một lũ bạn, trong đó có vài tên quen biết với cậu, cả nhóm đến rủ mình đi ăn kem. Khi chúng mình vào quán kem gần nhà, Người thì gọi kem chocolate, người khác thì muốn kem Venille hay kem hỗn hợp hai thứ. Trong lúc ăn kem, mình mới giở tập thư của cậu ra đọc to cho tất cả mọi người nghe, coi như thú vui lúc thanh nhàn. Đọc được vài trang, thì có một tên bạn càu nhàu nói lớn: “Kỳ lạ thật! tao gọi kem Chocolate mà sao có mùi gì thôi thối, kem bị hư thì phải?”.  Lại một tên khác cũng la lên: “Đúng vậy, ly kem vanille của tao sao cũng có mùi thum thủm !”, Rồi lại vài tên bạn khác la lên là kem hư, kem thối! Chính cá nhân mình cũng cảm thấy có mùi khó ngửi từ ly kem chocolate của mình!

Cả nhóm định không ăn, đang tính gọi chủ quán ra than phiền. Đúng lúc đó, một thằng vỗ tay thích thú và nói to: “Mùi sầu riêng! Đúng là mùi thối của sầu riêng rồi!” Hắn gật gù vừa cười, vừa nói tiếp: “Bố khỉ, những lá thư tình viết mướn mà thằng Dương vừa đọc có mùi sầu riêng đó, không phải từ kem thối hư đâu! Cứ thoải mái an tâm mà ăn đi!”

Kể xong câu truyện, Dương trịnh trọng mở cặp lấy tập “thư tình viết mướn” đưa tận tay tôi, với nụ cười mỉm có tí “đêu đểu“ hắn nói với tôi:

-Mình cũng không ngờ những lá thư tình cậu viết nó “đạt” đến mức làm kem sầu riêng mà không cần sầu riêng!

Nghe hắn nói “móc“ tôi đã bực mình muốn giơ tay đấm cho hắn một cái, nhưng nghĩ kỹ thấy cũng có lý và đúng sự thật. Những lá thư tình yêu tôi viết cho những người thuê tôi, họ đều cần những câu văn, những ngôn từ ướt át, than van hay những suy tư rất mộng mị mang đầy chất liễu trai hay hào nhoáng như tiên cảnh bồng lai. Tôi nhận tiền công của họ nên phải viết làm sao cho đúng ý của họ yêu cầu, đó là một điều rất hợp lý. Đơn giản và dễ hiểu thế mà thôi. Đã vậy, tại sao tôi phải khó chịu, bực mình với thằng bạn mà tôi mến thích, thân thương khi hắn nói quá đúng! Nghĩ như vậy nên tôi cũng cười trừ, bỏ qua như lần trước, khi hắn nói về ban nhạc “Marie Sến” gõ thùng hòa nhịp với cô gái gánh nước khi cô ta đọc những lá thư tình viết mướn của tôi.

Sau khi tốt nghiệp trường Kiến Trúc, Dương được tuyển vào làm việc cho Đại Học Cần Thơ sau tôi khoảng 2 năm. Chúng tôi lại có dịp chơi đùa, gần gũi với nhau như xưa, cho đến khi tôi đi Nhật tu nghiệp năm 1974 . Chúng tôi tạm xa nhau, hẹn gặp nhau tán phễu tiếp tục khi tôi về nước. Nhưng tháng 4, năm 1975 xảy đến, Dương bị mất việc tại Cần Thơ. Trở về lại Sài Gòn, Dương mở một văn phòng kiến trúc tư nhân cũng là nơi gia đình sinh sống, ngay trung tâm Saigon, trên đường Nguyễn công Trứ rất gần bùng binh Quách Thị Trang. Những lần tôi về VN rong chơi, lần nào chúng tôi cũng gặp nhau, ăn nhậu, uống cà phê và tụ tập bạn bè nói tếu, đùa giỡn như xưa. Nhưng vào khoảng năm 2016 hay 2017 Dương đã ra đi vĩnh viễn vì tai nạn giao thông ngay trước cửa chợ Sai gon, rất gần nhà của Dương. Dương ra đi để lại cho chúng tôi và vợ con của Dương biết bao nhiêu mến thương và kỷ niệm.

Cuộc sống nhân gian là thế, luôn luôn có những vui cười, hạnh phúc xen lẫn với những chán chường khổ đau. Theo tôi, người hạnh phúc nhất, là người biết chấp nhận tất cả những vui ca cũng như khổ đau mà cuộc sống mang đến cho mình. Tôi nghĩ Dương, người bạn thân thương, dễ mến của tôi thuộc nhóm người hạnh phúc đó vì tôi và nhóm bạn chưa bao giờ thấy anh ta buồn lo và không đùa giỡn.

(Thuỵ Sĩ, Zuerich)

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Thầy Fuyuo Ohta
Thầy Fuyuo Ohta, Ðại học Kagoshima, Nhật Bản, là vị thầy học cuối cùng trong hơn hai mươi năm đi học của đời tôi. Vị thầy khác tổ quốc, khác…
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: