Nước cuốn theo dòng

Hình minh hoạ: Pexels

Buổi chiều hôm ấy tôi khóc gần hết nước mắt khi bà ngoại đưa tôi đến trường rồi lẻn ra cửa sau đi mất. Trong lớp cũng có nhiều đứa khóc nhưng sau một lúc đến giờ ra chơi thì quên hết. Riêng tôi cứ ứa nước mắt hoài, không nín được vì nhớ cái nắm tay thật chặt của ngoại trên con đường nắng chang chang. Ngoại bảo đi cho thật nhanh kẻo trễ giờ. Quần cộc áo ngắn, chân đất đầu trần đi sát lề lộ tráng nhựa, rát đến độ muốn phỏng chân. Ấy là năm 1954 tôi vào học lớp Đồng ấu với thầy Tỷ, nhà ở dưới ngã ba bờ sông phía đường đi Mộc Hóa.

Trường lúc bấy giờ là một dãy thành Tây cũ mái lợp ngói vảy cá, nền cao lót gạch đỏ nằm sát bên cầu Kinh. Đến năm 1959 thì dỡ bỏ và xây lầu thành trường trung học Đốc Binh Kiều sau nầy, chỉ giữ lại sân tennis là còn nguyên trong sân trường. Còn trường Tiểu học Cai Lậy thì dời về dãy nhà trệt nhiều căn mới xây trước miễu Bốn Ông và bắt đầu sử dụng từ năm 1958.

 Cai Lậy hồi ấy nhà cửa còn thưa thớt lắm, từ trong sân trường tiểu học cũ có thế nhìn trống trải ra thấy Dinh quận, dãy phố Lê Minh Viên và mặt tiền nhà lồng chợ. Điểm đặc biệt là chợ Cai Lậy có hai nhà lồng, nhà lồng phía trên có mấy quầy bán đồ vật dụng gia đình, kế đến là các sạp bán đồ ăn xen lẫn với các quầy bán nước đá, cà phê, sinh tố và chè cháo rất thuận tiện cho khách có thể vừa ngồi ở quán nước vừa gọi được đồ ăn đủ loại ở kế một bên.

 Cách nhau một con đường chính chạy từ phía chùa Bà đến khu phố có tiệm thuốc Tây của chú Tám Lọ và nhà thầy giáo Nam là nhà lồng thứ hai, chủ yếu gồm có các sạp bán vải và vật liệu đồ sắt.

Phố xá Cai Lậy ở hai bên hông nhà lồng chợ chỉ độ mười mấy gian có thể kể những tên tiệm rất quen thuộc như cà phê Châu Đức Hiền, tiệm thuốc Bắc Xuân Đức Đường, tiệm vàng Hoa Nam.v…v. Sau nầy cặp theo đường phố còn rộng ngăn cách giữa hai nhà lồng chợ, chủ phố cho xây thêm các dãy ki-ốt nhỏ mà đầu dãy là gian hàng bán nước mắm Thanh Hương của cô giáo Hương, tiệm hớt tóc Hai Oanh.

Qua khỏi nhà lồng chợ là phố bờ sông, đẹp không sao tả xiết với những căn nhà xây theo kiểu cổ, phía trước lan can trên lầu có khắc phù điêu, quét vôi màu vàng mỡ gà hướng ra bờ sông với những bảng hiệu mà chữ nghĩa tôi còn nhớ đến tận bây giờ như Lâm Thoại Hưng, Lâm Hoành Cơ…

Tuổi thơ tôi sáng ở chợ, sau khi lót dạ năm cắc xôi bà ngoại cho, rồi thì xếp hàng đầu vòng quanh gánh xiếc “Sơn Đông mãi võ” bán thuốc “Cao đơn hoàn tán” coi chơi cho đến trưa, tận đến giờ đi học. Chỉ kịp về nhà ôm cái cặp đệm tưa viền cuốn mép cũ xì và dính lốm đốm màu mực xanh đỏ. Mặt mày tôi cũng lấm lem bụi bặm cả ngày ở ngoài chợ. Hôm nào gánh xiếc tan sớm hay bị dời đi chỗ khác thì tôi mới có dư thì giờ chạy xuống bờ sông tắm lội cả tiếng đồng hồ. Những hôm như thế thì mặt mày mới sáng sủa hơn và tóc mới được chảy nước nằm sát da đầu, ép ngược về phía sau trông giống như tóc mấy ông Tây trong hình vẽ quảng cáo.

Hình minh hoạ

Vào lớp học ít lắm, chỉ mong tới giờ ra chơi, có hôm còn trốn ra phía sau trường lặn ngụp dưới rạch Cầu Kinh cho tới khi nghe tiếng trống vào lớp mới trồi lên. Bài vở trong sách tập đọc dễ ẹt so với chữ nghĩa trong toa thuốc quảng cáo ở ngoài chợ mà tôi đánh vần hằng ngày từ sáng tới trưa. Giấy sách báo rời cắt nhỏ dùng để gói đồ tôi đọc không sót một chữ nào khi có trong tay.

Quán nước của Ngoại ở đầu góc chợ đối diện với tiệm hàng xén Quảng Phát của cô Hai Bắc, người miền Bắc chính hiệu, là chỗ tôi thường hay sang chơi với đứa nhỏ con của cô tuổi đồng trang lứa. Những hôm tiệm ế, cô Hai cho hai đứa xấp tiền giấy lại cho ngay thẳng rồi đếm và gom tiền cắc lại từng cây phân loại ra cho đúng sẽ được thưởng một cây cà rem và năm cắc. 

Có những buổi trưa ngồi ở quán ngoại chờ tới giờ đi học, nhìn mấy đứa nhỏ đi học trường chùa Bà mà thèm ghê lắm. Đứa nào cũng mặc áo quần sạch sẽ, trắng tinh. Con gái mặc váy xanh xếp li xòe phất phới. Cặp da, giày xăng-đan sáng loáng. Ngoại nói trường Tàu dành cho con nhà giàu. Mà thiệt, toàn là con cái của các chủ tiệm lớn ở chợ. Phận mình là vậy. Ngoại ứa nước mắt.

Nhà ngoại đơn chiếc. Cậu Tư có gia đình vợ con ra riêng ở gần rạp hát trong khu đất của thầy giáo Nam. Ông ngoại suốt ngày làm ở xưởng mộc ngoài ngã tư. Chỉ còn dì Hai Nhung, cháu kêu ngoại bằng Bác Hai năm đó tuổi chừng mười sáu, mười bảy, ngoài việc phụ ngoại bán quán nước ngoài chợ còn lo việc nhà cơm nước. Do đó toàn là “cơm mạnh” nghĩa là mạnh ai nấy ăn. Tôi tự lo liệu lấy việc ăn uống. 

Cả ngày, ngoài giờ học ở trường tôi thường đi chơi rong là chính, lặn lội đủ mọi nơi mọi chỗ, ở đâu có lộn xộn là có tôi tham dự vào đủ mọi trò chơi trừ việc chia phe đánh vật nhau là không có. Còn chuyện học hành chỉ là phụ, tự tôi lo lấy tất cả không ai nhắc nhở coi chừng hay soát xét gì cả. Tự do hoàn toàn. Thế mà vào lớp tôi là đứa mà tụi bạn bu lại nhiều nhất. Tôi biết đủ thứ ở ngoài chợ, nhất là tôi còn viết được một vài chữ Tàu thấy trên các bảng hiệu rồi nhờ anh lớn ở tiệm thuốc Xuân Đức Đường bày vẽ viết cho ít chữ. Đồ đi, đồ lại cho đến khi thuộc lòng. Tụi bạn bắt đầu cọp-dê tôi đủ thứ từ tập viết, toán số và ngay cả chữ Tàu.

Còn buổi tối hôm nào có gánh hát cải lương về rạp Nam Thành là tôi có mặt ở rạp sau giờ tan học. Sân rạp hát nền đất cát, thấp hơn mặt đường rất nhiều trông giống như một lòng chảo. Hai bên nhà lá, vách gỗ nằm trồi thụt vây quanh trước cửa rạp. Mợ Tư có gánh cháo gà bán ở sân rạp hát cho tới khuya. 

Hình minh hoạ: Tam Nguyen/Unsplash

Xế chiều tôi tự nguyện ra phụ lai rai với mợ cho tới khi được ăn một tô cháo nóng ngon lành rồi thì là biến mất, sau đó chèn lấn vô rạp coi-cọp. Thường gần hết tuồng tôi lật đật ra sớm để rửa chén và chuẩn bị phụ mợ Tư khi khách vãng hát ra mua cháo. Chơi mà biết lo, mợ Tư thích lắm. Thỉnh thoảng còn cho năm cắc mua đậu phộng rang đem vào rạp lai rai.

Thầy Tỷ thỉnh thoảng cũng có ra quán của Ngoại uống nước và biết tôi là cháu ngoại của ông Hai Hớn. Thầy đến, tôi cúi đầu chào “thưa thầy” rất lễ phép. Thầy thường hay khen với Ngoại là tôi rất ngoan và học giỏi. 

Có hôm các thầy ở trường cùng với chú Tám Lọ rủ nhau ra quán Ngoại ngồi lâu, tôi lờ mờ biết dì Hai Nhung lúc bấy giờ đẹp nhất ở chợ Cai Lậy nên tôi rất lanh lẹ phụ việc nước nôi để dì Hai có thì giờ tiếp chuyện với mấy thầy. Có lẽ nhờ vậy mà tôi luôn luôn được điểm mười và cuối năm được lãnh phần thưởng không chừng. Mà thiệt, năm nào tôi cũng được lãnh thưởng. Khi đem về nhà không ai để ý lắm nên tôi thường hay đem ra khoe sách vở, tập viết đồ lãnh thưởng rồi chia cho mấy đứa con của cô Hai Bắc.

Lâu lâu, nhằm ngày nghỉ lễ hay Thứ Bảy Chủ Nhật, dì Hai Nhung dẫn tôi ra bến xe đò đậu ở ngã ba Bến Cát gởi cậu Tư về Mỹ Tho thăm ba mẹ và các em. Cậu Tư là tài xế nên tôi luôn luôn được ngồi trên cái ghế đẩu nhỏ xíu đặt bên cạnh ghế tài xế và thùng máy xe to đùng tỏa hơi nóng muốn ngộp thở trên đoạn đường gần một tiếng đồng hồ ngồi thù lù không cựa quậy gì được. Thỉnh thoảng cậu Tư lại còn quay sang bảo ngồi xích lên và vịn vào thành ghế cho khỏi ngã khi xe quẹo cua gắt.

Về nhà chơi được một hoặc hai ngày vui lắm. Ở chơi đến chiều hôm sau ra xe cậu Tư về Cai Lậy, lần nào tôi cũng khóc khi nghe mẹ bảo con ráng ở với Ngoại cho đến hết năm rồi mẹ sẽ xin chuyển trường về Mỹ Tho. Sau đó mẹ gởi tiền cho cậu Tư đem về cho Ngoại.

Chờ riết cho đến hết năm tới hè cũng không nghe mẹ nói tới chuyện chuyển trường về Mỹ Tho. Mẹ bảo tội nghiệp Ngoại, con ráng ở trển cho Ngoại đỡ khổ. Tôi không biết rõ nhưng sau nầy khi lớn khôn tôi mới hiểu ra nên thương mẹ lắm. Mẹ thương Ngoại nên gởi tôi ở với Ngoại cho đỡ điều tiếng với anh chị em bên nhà chồng khi chu cấp hàng tháng cho Ngoại.

Mãi đến khi ba làm giấy tờ cho ngoại theo chương trình lập khu dinh điền vào khai khẩn đất hoang ở kênh Bằng Lăng trong vùng Đồng Tháp Mười gần giáp ranh chợ Ngã Năm (Mỹ An) thì tôi mới được dời về Mỹ Tho sống với ba mẹ và các em. Bắt đầu một cuộc sống mới ngập tràn niềm vui gia đình.

Hai năm sau tôi thi đậu vào lớp Đệ thất trường Nguyễn Đình Chiểu, Ba dẫn ra tiệm may nổi tiếng ở chợ Mỹ Tho hiệu Vạn Tân đặt may cho hai bộ đồ, quần tây vải ka-ki ni-lông màu xanh dương đậm, áo sơ mi trắng vải pom-pơ-lin. Ra tiệm đóng giày mua một đôi giày xăng-đan da đen, hai quai có đóng móng sắt dưới đế. Cặp da láng coóng. Hôm tựu trường ba chở đi học bằng xe mô-by-lét, đầu chải bri-dăn-tin mướt rượt. Tự nhiên khi tới cổng trường tôi lại nhớ Ngoại hồi năm xưa ở Cai Lậy. Nhớ hoài con đường tới trường nắng như đổ lửa, chân đất đầu trần.

Trong những năm thơ ấu, mấy anh em tôi nổi tiếng là ngoan hiền trong cư xá, những tối Thứ Bảy, tòa tỉnh tổ chức ca hát ở công viên có xổ số Tombola thì anh em tôi là những đứa trẻ ăn mặc thật đẹp được chọn lên khán đài để quay số. Hôm sau bọn trẻ ở cư xá nhìn anh em tôi mà ngưỡng mộ lắm. 

– Quay số có khó không?

– Dễ hơn quay số ở bàn xe kẹo kéo. 

Rồi một cuộc binh biến xảy ra vào cuối năm 63. Chính sự rối ren, xã hội xáo trộn. Ba bị kết án thuộc đảng Cần Lao của Tổng thống Diệm nên sau khi bàn tới bàn lui với các đồng sự trong Tòa hành chánh, ba đã phải bỏ trốn trong đêm mùng 4 Tháng Mười Một năm ấy. Ba rời tỉnh lỵ Mỹ Tho đi đâu không cho gia đình biết.

Mãi đến sáu tháng sau, khi tình hình chính sự bớt căng thẳng, mọi việc ở địa phương dần dần ổn định trở lại như cũ thì gia đình mới biết được tin là ba đang ẩn náu trong xóm đạo người Bắc di cư tận ngoài ngã ba Liên Khương (Đà Lạt). Căn nhà trong cư xá bị tịch thu để chuyển giao lại cho người khác, mẹ cùng đường dẫn hết sáu đứa con về Cai Lậy sống nhờ vào ông bà Ngoại.

Năm ấy tôi đang học lớp Đệ Ngũ trường Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho. Gia đình ly tán, nếu muốn tiếp tục theo học thì không còn con đường nào khác là phải về quê nội ở làng Long Bình Điền, Chợ Gạo sống với bà để đi học. 

Hình minh hoạ: Dikaseva/Unsplash

Làng Long Bình Điền cách thành phố Mỹ Tho khoảng bảy cây số nằm dọc theo đường liên tỉnh Mỹ Tho – Gò Công, bên kia đường là ruộng lúa bạt ngàn chạy tít đến tận chân trời, bên nầy là vườn dừa xanh ngát nằm dựa vào Vàm Kỳ Hôn, có lộ Nhà thờ chạy thẳng tắp đến bến đò, bên kia vàm là Nhà thờ Thủ Ngữ thuộc họ đạo Xuân Đông lâu đời có tháp chuông cao to nhất trong vùng. 

Ở quê có nhiều địa danh rất dễ nhớ mà lơ xe đò thường hay nhắc nhở dọc theo đường cái, thường thì đường có trải đá gọi là lộ như lộ Vàm, lộ Xoài, lộ Nhà thờ còn vị chi là bờ ruộng tùy theo từng nơi, dẫn đến chùa thì gọi là bờ Chùa, dẫn đến rạch thì theo tên rạch mà gọi hoặc có khi theo tên tuổi của những người nổi tiếng có nhà ở sâu tuốt trong làng như bờ Bộ An, bờ Xã Dinh. Đường vào nhà nội nằm giữa hai bờ Bộ An và bờ Rạch Chiếu dẫn tới kênh Rạch Chiếu. 

Ban đầu, mỗi sáng tôi ra đường lộ cái đón xe đò chuyên đưa rước học sinh khởi hành từ Chợ Gạo chạy thẳng đến trường, chuyến thứ nhất là xe bác Sáu Cử chuyên chở nữ sinh, chuyến thứ hai chậm độ hơn mười phút là xe chú Hai Đỗ chuyên chở nam sinh. Tuy là phân biệt xe chở nam nữ nhưng tùy theo sớm trễ, nam hay nữ đều có thể lên xe nào cũng được, chủ yếu là để phân giờ cho tiện việc rước khách.

Được nửa năm, ba tôi từ Đà Lạt gởi về cho chiếc xe đạp và một đồng hồ đeo tay. Từ đó, ngày hai buổi tôi đến trường bằng xe đạp và việc học hành rất suôn sẻ. Duy chỉ những ngày mưa gió là vất vả nhất vì phải chân đất lội bùn vác xe đạp đi dọc theo bờ ruộng ra đến lộ cái mới rửa chân mang dép đạp xe lên tỉnh. Thường thì những ngày mưa biết trước tôi đều đón xe đò đi học cho đỡ ướt quần áo và cặp vở.

Nhớ những chiều mưa u ám trời tối về trễ, bà tôi thường hay ra đón cháu ở nhà Tư Tỷ, đầu bờ Rạch Chiếu sẵn sàng bó đuốc lá dừa đi sau soi đường cho cháu vì sợ không quen lỡ bị té ruộng rạch thì nguy. Nội già sống bằng huê lợi vườn dừa và ít ruộng cho người thuê, thu lúa ruộng hằng năm cũng vừa đủ sinh hoạt cho hai bà cháu.

Trên đường về quê nội khó khăn, vất vả vô cùng vì vừa lo sợ cho hoàn cảnh ly tán của gia đình vừa không biết phải sống và học hành ra sao khi trôi dạt về đây. Khó khăn về vật chất thì còn có thể sống hẩm hiu với Nội, khó khăn về tinh thần thì dần dà cũng nguôi ngoai, khó khăn trong nếp sinh hoạt ở quê thì lâu rồi cũng quen và hội nhập được. Nhưng những khó khăn về thời sự chiến tranh thì không thể nào vượt qua được với nỗi lo sợ, hồi hộp luôn đè nặng lên đời sống từng ngày trong vùng xôi đậu, ban ngày là Quốc gia, ban đêm là cộng sản. 

Thanh niên trai tráng lớp nghèo, học chỉ vài năm bậc tiểu học thì đi lính quân dịch, lớp khá giả hơn ở trong làng thì xin được một chân Nghĩa quân, ban ngày về nhà sinh hoạt ruộng rẫy bình thường tối ra đồn ngủ. Còn lớp thanh niên thất học ở sâu trong đồng ruộng, không học hành chữ nghĩa gì cả thì theo cộng sản. 

Hình minh hoạ: Kelly Sikkema/Unsplash

Chiến tranh đến hồi quyết liệt, hai bên đều ra sức động viên trai tráng vào quân đội. Phía Quốc gia qui định thanh niên 18 tuổi trở lên mới thi hành quân dịch và còn có những trường hợp được hoãn hay miễn dịch. Phía cộng sản thì 15 tuổi cũng đã bắt thoát ly kể cả nữ, họ còn về vùng xôi đậu ban đêm tập họp thanh niên, thiếu nữ gọi là đi họp, nhưng kỳ thực là bắt thoát ly ra vùng căn cứ luôn, chưa kể cha chết thì con nối tiếp thay cha, anh chết thì em thay, bất luận tuổi tác là bao nhiêu. Do đó lúc nào cộng sản cũng có người xâm nhập hoạt động, càng lúc càng nhiều, sau nầy có cả bộ đội miền, cấp tiểu đoàn về làng đóng quân cả tháng trời. 

Tình hình bắt đầu phức tạp, đồn cây số 7 có Nghĩa quân làm nội tuyến đến phiên gác nửa đêm, mở cửa đồn cho cộng sản tràn vào đâm chết tất cả, chẳng những Nghĩa quân mà còn cả vợ con tối vào ngủ trong đồn. Truyền đơn từ hai phía rải đầy trên khắp các lối đi. Ngày đêm hai loại khác nhau, lên án Việt cộng hay “Mỹ Ngụy”. Đôi bên ra sức bắt bớ những người bị tình nghi là mật báo viên, điềm chỉ viên hay gián điệp. Làng xóm đâm ra nghi ngờ lẫn nhau. Mìn bẫy, lựu đạn gài trong cuối bìa vườn ở những nơi trọng yếu, chỗ dân chúng thường qua lại. Thỉnh thoảng cũng có người chết khi ra vườn làm cỏ mà không biết và cũng không ngờ. Không biết ai gài bỏ lại?

Chưa được bao lâu thì biến cố Tết Mậu Thân xảy ra, cộng sản tràn về khắp nơi kể cả ở thị xã, giao tranh ác liệt, lính tráng đôi bên chết đã đành mà dân thường vô tội cũng vạ lây chết nhiều vô số kể. Nhất là khi cộng sản về tới thành phố có dịp trả thù, giết chết nhiều người tay không vì bị tình nghi là theo địch.

Năm đó tôi đang học lớp Đệ Nhất (lớp 12) chuẩn bị thi Tú Tài toàn phần và lệnh tổng động viên đã được ban hành, qui định thanh niên từ 18 tuổi trở lên phải thi hành quân dịch. Bạn bè ở trường một số đã vào quân đội, còn những đứa ở quê thì cộng sản bắt gom đi không bỏ sót một người. Trước hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm như thế tôi thấy là không thể nào tiếp tục ở quê được nữa, tôi bàn với Nội thay vì mỗi tối ra nhà cô Hai ngủ, tôi chịu khó đạp xe lên tỉnh ngủ nhờ với các bạn, sáng đi học và trưa chiều về ăn cơm nhà Nội. Dần dần tôi đóng tiền ở trọ luôn đến cuối tuần mới về nhà đem gạo thóc và thức ăn lên. Từ đó tôi về quê thưa hơn. 

Rồi dần theo thế sự thăng trầm, tôi rời làng quê cố thổ ít có dịp nào để trở lại chốn cũ, quê xưa… Ra đi tôi mang theo trong lòng những buồn tủi thời chân đất đầu trần đầy bụi bặm ngoài chợ Cai Lậy cùng với những tháng ngày nắng gió chang chang cỡi xe đạp độc hành trên con đường lộ đá để đến trường hay những buổi chiều mưa tầm tã lội bùn theo ánh đuốc soi đường của Nội trên bờ kênh Rạch Chiếu đã để lại trong tôi một nỗi buồn khó tả.

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: