Câu vọng cổ của thằng Jean

Đờn ca tài tử. Credit by BaoBinhduong

“Riêng tặng những ai còn ca, còn nhớ vọng cổ… và còn nhớ đến Quê Hương…”

Tôi vượt biên một mình rồi định cư ở Pháp. Năm đó tôi 49 tuổi, vậy mà đi tìm việc làm ở đâu người ta cũng chê tôi già! Một hôm, khi chải tóc, tôi nhìn kỹ tôi trong gương. Tôi bỗng thấy ở đó có một người có vẻ như quen nhưng thật ra rất lạ: mắt sâu, má hóp, mặt đầy nếp nhăn trên trán, ở đuôi mắt, ở khoé môi, mái tóc ngà bạc cắt tỉa thô sơ. Bao lâu nay tôi không để ý, bây giờ soi gương vì bị chê già, tôi mới thấy rằng tôi của hồi trước năm 1975 và tôi của bây giờ – nghĩa là chỉ sau có mấy năm sống dưới chế độ được gọi là “ưu việt” – thật không giống nhau chút nào hết. Tôi già thiệt, già trước tuổi. Cho nên, tôi nhìn tôi không ra. Từ đó, mỗi ngày tôi… tập nhìn mình một lần, nhìn kỹ, cho quen mắt.

Một người bạn làm việc lâu năm ở Côte d’Ivoire (Phi Châu) hay tin tôi đã qua Pháp và vẫn thất nghiệp, bèn giới thiệu tôi cho Công ty Đường mía của quốc gia. Không biết anh ta nói thế nào mà họ nhận tôi ngay, còn gửi cho tôi vé máy bay nữa!

Xưa nay, tôi chưa từng quen một người gốc Phi Châu nào hết. Và chỉ có vài khái niệm về Phi Châu như: ở đó nóng lắm, đất đai hoang vu. Dân chúng thì tối ngày chỉ thích vỗ trống, nhảy múa tưng tưng v.v… Vì vậy, tôi hơi ngán. Nhưng cuối cùng rồi tôi cũng quyết định, qua xứ đó để làm việc vẫn danh dự hơn là ở lại Pháp để tháng tháng vác cái mặt Việt Nam đi xin trợ cấp đầu nọ, đầu kia.

Nơi tôi làm việc tên là Borotou, một cái làng nằm cách thành phố Abidjan gần 800km. Vùng này toàn rừng là rừng. Không phải là rừng rậm rì cây cao chớn chở như ở Việt Nam. Rừng ở đây cây thấp, lưa thưa, khô khốc. Không có núi non, chỉ có một vài đồi trũng, nhưng đồi không cao, và trũng không sâu. Nhà nước phá rừng trồng mía. Ruộng mía ngút ngàn. Nằm ở trung tâm là khu nhà máy, các khu khu cơ giới, khu hành chánh, khu cư xá v.v… nằm cách nhau cỡ vài cây số.

Muốn về Abidjan, phải lái xe hơi chạy theo đường mòn xuyên rừng gần ba chục cây số mới ra tới đường cái tráng nhựa. Từ đó chạy đi Touba, một quận nhỏ với đông đảo dân cư; từ đây, lấy máy bay Air Afrique về Abidjan, mỗi ngày chỉ có một chuyến. Phi trường Touba nhỏ xíu, chỉ có một nhà ga xây cất sơ sài và một phi đạo làm bằng đá đỏ, mỗi lần máy bay đáp lên đáp xuống là bụi bay… đỏ trời!

Tôi hơi dài dòng ở đây để thấy tôi đi “làm lại cuộc đời” ở một nơi hoang vu hẻo lánh mà cảnh trí thì chẳng có gì hấp dẫn hết! Thêm vào đó, tôi là người Á Đông duy nhứt làm việc chung với Tây trắng (chỉ có năm người) và Tây đen (đông vô số kể). Ở đây, thiên hạ gọi tôi là “le Chinois” – thằng Tàu. Suốt ngày, suốt tháng tôi chỉ nói có tiếng Pháp. Cho nên, lâu lâu thèm quá, tôi soi gương rồi… nói chuyện với tôi bằng tiếng Việt, trông giống như thằng khùng! Chưa bao giờ tôi thấy tôi cô đơn bằng những lúc tôi đối diện tôi trong gương như vậy.

Một hôm, sau hơn tám tháng “ở rừng”, tôi được gọi về Abidjan để họp (là lần đầu tiên tôi được về thủ đô). Anh tài xế đưa tôi ra Touba. Chúng tôi đến phi trường lối một giờ trưa. Phi trường nhỏ mà hành khách khá đông. Nhiều người ngồi với hành lý thùng cạc-tông, bao bị, valy… cồng kềnh. Không khí nóng bức. Mấy cái quạt trần quay vù vù, cộng thêm mấy cây quạt đứng, vậy mà cũng không đủ mát. Thiên hạ ngủ gà ngủ gật, tôi cũng ngả người, lim dim… Trong lúc tôi thiu thiu ngủ thì loáng thoáng nghe có tiếng ca vọng cổ. Tôi mở mắt nhìn quanh thấy không có gì, bèn thở dài: “Chắc tại mình nhớ quê hương quá nên trong đầu nghe ra như vậy!”. Nhưng rồi tôi lại nghe nữa, mà lần này nghe rõ từng câu ngân nga:

“Mỗi buổi hoàng hôn tôi vẫn đứng đây để nhìn từng chiếc phi cơ cất… cánh. Rồi khuất lần sau khói trắng sư…ơng… ch…iều. Tôi nhớ quê hương và mong đợi ngày… dìa”.

Đúng rồi ! Không phải tôi đang mơ, mà rõ ràng có ai dang ca vọng cổ ngoài kia. Tôi nhìn ra thấy xa xa dưới lùm cây dại có một người da đen nằm võng. Lạ quá! Người da đen bình thường đâu có ai nằm võng. Tò mò, tôi đi về hướng đó. Một anh đen còn trẻ, còn cái võng là võng nhà binh của quân đội Việt Nam Cộng Hòa hồi xưa. Tôi nói bằng tiếng Pháp : “Bonjour!”.

Hắn ngừng ca, ngồi dậy nhìn tôi mỉm cười: “Bonjour !”

Tôi hỏi, vẫn bằng tiếng Pháp:

– Anh hát cái gì vậy?

Hắn đứng lên, vừa bước về phía tôi vừa trả lời bằng tiếng Pháp:

– Một bài ca của Việt Nam. Còn ông? Có phải ông là le Chinois làm việc cho hãng đường ở Borotou không?

Tôi trả lời:

– Đúng và sai ! Đúng là tôi làm việc ở Borotou. Còn sai là vì tôi không phải là người Tàu. Tôi là người Việt Nam!

Nghe vậy, hắn trợn mắt rồi bật ra bằng tiếng Việt, giọng đặc sệt miền Nam:

– Mèn đéc ơi ! Bác là người Việt Nam hả? Con cũng là người Việt Nam nè!

Thiếu chút nữa là tôi bật cười. Nhưng tôi kiềm lại kịp, khi tôi nhìn gương mặt rạng rỡ vì sung sướng của hắn. Rồi tôi nghe một sự xúc động dâng tràn. Thân đã lưu vong, lại “trôi sông lạc chợ” đến cái xứ “khỉ ho cò gáy” này mà gặp được một người biết nói tiếng Việt và nhận mình là người Việt, dù là một người da đen, sao thấy quý vô cùng.

Hắn bắt tay tôi bằng cả hai bàn tay, vừa lắc vừa nói huyên thuyên:

– Trời ơi! Con mừng quá! Mừng quá! Bác biết không? Bao nhiêu năm nay con thèm gặp người Việt để nói chuyện cho đã. Bây giờ gặp bác, con mừng hết lớn bác à!

Rồi hắn kéo tôi lại võng:

– Bác nằm đi! Nằm đi! Con nghe thiên hạ nói ở Borotou có một người Tàu. Con đâu dè là bác. Nếu biết vậy con đã phóng Honđa vô trỏng kiếm bác rồi! Đâu đợi tới bây giờ.

Hắn móc gói thuốc, rồi mời tôi:

– Mời bác hút với con một điếu.

Hắn đưa gói thuốc về phía tôi, mời bằng hai tay. Một cử chỉ mà từ lâu tôi không còn nhìn thấy. Một cử chỉ nói lên sự kính trọng. Tôi thấy ở đó một “cái gì” rất Việt Nam.

Tôi rút điếu thuốc để lên môi. Hắn bật quẹt máy, đưa ngọn lửa lên đầu điếu thuốc cho tôi. Tôi bập thuốc rồi ngạc nhiên nhìn xuống cái quẹt máy. Đó là loại quẹt máy Việt Nam, nho nhỏ, dẹp lép. Hắn cầm cái hộp quẹt, nhìn một cách trìu mến:

– Của ông ngoại con cho đó. Hồi đó ông gọi con bằng “thằng Lọ Nồi”.

Ngừng một chút hắn tiếp:

– Vậy mà ổng thương con lắm à bác!

Tôi hỏi:

– Vậy là cháu lai Việt Nam à?

– Dạ. Má con quê ở Nha Trang.

– Rồi má cháu bây giờ ở đâu?

Giọng của hắn như nghẹn lại:

– Má con chết rồi. Chết ở Nha Trang hồi Việt cộng vô năm 1975.

– Còn ba của cháu?

– Ổng hiện ở Paris. Nhờ có dân Tây nên sau 1975 con được hồi hương. Con đi quân dịch cho Pháp xong rồi, về đây ở với bà nội. Con sanh ra và lớn lên ở Sài Gòn, về đây, buồn thúi ruột thúi gan luôn!

Tôi nhìn hắn một lúc, cố tìm ra một nét Việt Nam trên con người hắn. Thật tình, hắn không có nét gì lai hết. Hắn lớn con, nước da không đến nỗi đen thui như phần đông dân chúng ở xứ này, nhưng vẫn không có được cái màu cà phê lợt lợt để thấy có sự khác biệt.

Tôi chợt nói, một cách máy móc:

– Thấy cháu chẳng có lai chút nào hết!

Hắn nhìn thẳng vào mắt tôi, giọng nghiêm trang :

– Có chớ bác. Con có lai chớ bác.

Hắn xòe hai tay đưa ra phía trước, lật qua lật lại:

– Bên nội của con là nằm ở bên ngoài này đây nè.

Rồi hắn để một tay lên ngực, vỗ nhè nhẹ về phía trái tim:

– Còn bên ngoại nó nằm ở bên trong. Ở đây nè bác.

Bỗng giọng hắn nghẹn lại:

– Con lai Việt Nam thiệt mà bác! Ngoài thì đen thui, chớ bên trong thì vàng khè bác ơi!

Trong khoảnh khắc, tôi xúc động đến quên mất màu da của hắn, mà chỉ thấy trước mặt một thanh niên Việt Nam, Việt Nam từ cử chỉ tới lời lẽ nói năng. Tôi vỗ nhẹ lên vai hắn:

– Ờ… Bác thấy. Bây giờ thì bác thấy rồi!

Hắn mỉm cười:

– Ở đây người ta nói con không giống ai hết, bởi vì con hành động cư xử, nói năng không giống họ. Bà nội con cũng nói như vậy nữa! Còn con thì mỗi lần con nhìn trong gương, con vẫn nhận ra con là người Việt Nam. Bác coi có khổ không? Bây giờ con gặp bác rồi, con thấy không còn cô đơn nữa. Gặp một người giống mình, ở cái xó xa xôi hẻo lánh này, thiệt là trời còn thương con quá!

Tôi im lặng nghe hắn nói, nhìn hắn nói mà có cảm tưởng như hắn đang nói cho cả hai: cho hắn và cho tôi. Bởi vì cả hai cùng một tâm trạng.

Hắn vẫn nói, như hắn thèm nói từ lâu:

– Nhớ Sài Gòn quá nên con hay ca vọng cổ cho đỡ buồn. Hồi nãy bác lại đây là lúc con đang ca bài “Đường về quê ngoại” đó bác.

– Bác không biết ca, nhưng bác cũng rất thích nghe vọng cổ.

Giọng nói hắn bỗng như hăng lên:

– Vọng cổ là cái chất của miền Nam mà bác. Nó không có lai Âu lai Á gì hết. Nó có cái hồn Việt Nam cũng như cá kho tộ, tô canh chua. Bác thấy không? Bởi vậy, không có gì nhắc cho con nhớ Việt Nam bằng bài ca vọng cổ hết.

Tôi thầm phục sự hiểu biết của hắn. Và tôi thấy rất vui mừng có một người như vậy để chuyện trò từ đây về sau…

Có tiếng máy bay đang đánh một vòng trên trời. Chúng tôi cùng đứng lên, hắn nói:

-Con phải sửa soạn xe trắc-tơ và rờ-mọt để lấy hành lý. Con làm việc cho hãng Air Afrique, bác à.

Rồi hắn nắm tay tôi lắc mạnh :

– Thôi, bác đi mạnh giỏi. Con tên là Jean. Ở đây ai cũng biết “Jean le Vietnamien” hết. Chừng dìa lại đây bác ghé con chơi, nghen.

Bỗng, hắn ôm chầm lấy tôi siết nhẹ rồi giữ như vậy không biết bao nhiêu lâu. Tôi nghe giọng hắn lạc đi:

– Ghé con nghe bác. Nhớ nghen Bác!

Tôi không còn nói được gì hết. Chỉ vừa gật đầu vừa vỗ vỗ vào lưng hắn như vỗ lưng một người con. Khi hắn buông tôi ra, tôi thấy hai má của hắn ướt nước mắt. Tôi vội quay đi, bước nhanh về nhà ga mà nghĩ thương cho “thằng Jean le Vietnamien”. Hồi nãy nó ôm tôi, có lẽ nó đã tưởng tượng như là nó đang ôm lại được một góc trời quê mẹ.

Bây giờ, viết lại chuyện thằng Jean mà tôi tự hỏi: Trong vô số người Việt Nam lưu vong hôm nay, còn được bao nhiêu người khi nhìn trong gương vẫn nhận ra mình là người Việt Nam? Và có được bao nhiêu người còn mênh mang trong lòng bài ca vọng cổ, để thấy hình ảnh quê hương vẫn còn nguyên trong đó, được như thằng Jean?

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: