Tôi và câu chuyện về những lá thư tình viết mướn

(Viết tặng riêng cho KTS Nguyễn Duy Dương)
(Hình minh họa: Pixabay)

Nếu tôi nhớ không lầm thì, năm tôi 6 tuổi (1952), lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong thời gian tôi sống ở Hà nội trước khi di cư vào Nam (1954) được chủ nhân cho tất cả gia đình người làm dưới quyền đi xem ciné tại nhà hát lớn Hà Nội. Phim ciné đầu tiên của đời tôi đó là phim hài của Charlie Chaplin. Tôi cũng không nhớ  phim gì trong hàng chục phim của vị thiên tài kiệt xuất thế giới này. Sau khi coi phim, trên đường về nhà. Mấy chục người, thuộc thế giới cùng khổ của Việt Nam thời phong kiến, thực dân chen nhau trên thùng chiếc xe GMC. Trẻ con cũng như người lớn, ai ai cũng khoa chân múa tay, cố gắng mô tả lại dáng điệu diễu cợt của Charlot rồi cùng ngặt nghẽo cười vui, thích thú.

Rồi khi vào Nam, nhờ sự hy sinh chịu đựng của bố mẹ cùng với cố gắng của tôi, cuộc sống của gia đình tôi khá lên dần dần. Việc bỏ tiền đi xem phim của Charlot, không còn quá khó khăn với tôi nữa. Tôi không dám chắc đã coi tất cả những phim của Charlot nhưng tôi nghĩ cũng khá nhiều trong số hàng chục phim dài, ngắn của ông ta. Khi còn trẻ, kiến thức của tôi về con người và xã hội, nhất là triết lý trong nhân sinh còn thấp kém, tôi đã coi những cuốn phim bất tử đó trong tư thế một cuộc giải trí, cười vui đúng nghĩa. Nhưng thời gian và học hỏi đã nuôi tôi khôn lớn, tôi đọc sách báo nhiều hơn. Tôi biết tìm hiểu cuộc sống, nhân sinh ở một góc cạnh cao cấp, thâm thuý hơn mà người ta gọi là những suy niệm triết học trong cuộc sống của con người và xã hội. Từ những tăng tiến kiến thức đó tôi đã nhìn thấy những cái triết lý cao siêu tiềm tàng trong những phim của Charlot.

Đúng như vậy, dù coi đi, coi lại nhiều lần bất cứ phim nào của Charlot nhất là những phim điển hình làm lên cái vĩ đại, bất tử của ông ta , như Modern times; The Great Dictator; Limelight… tôi vẫn cười vang thích thú. Nhưng sau một lúc, tôi chợt thấy nước mắt của mình chảy dài xuống gò má, làm tôi đờ dẫn trầm tư. Lý do rất dễ hiểu, tôi đã tìm thấy những bi thương, tàn bạo, bất công hay dối trá… của con người, của xã hội ẩn tàng sau những nụ cười vui đó. Tôi đã hiểu rõ ẩn ý sâu kín trong những tập phim diễu cợt của Charlot. Đó là triết lý BI HÀI (bi đát và hài hước) trong những phim của ông.

Hôm nay với bài tạp bút này, tôi cũng muốn dùng chữ nghĩa, câu văn để kể lể về một khoảng thời gian rất tếu (nhưng cũng rất buồn) trong cuộc đời của tôi. Nó cũng có những đắng cay thầm kín chôn sâu trong công việc mà tôi đã làm trong quá khứ. Đúng như vậy, hoàn cảnh đói nghèo đã làm cho tôi bước vào cái công việc khác thường này, hòng tìm một tí thu nhập cung ứng cho thời sinh viên nghèo đói của tôi. Đó là công việc viết thư tình mướn.

Trong hàng chục lá thư tôi viết mướn, có những lá thư chuyên chở một tình yêu thật sự, một ý hướng trong sáng, chân thành, đáng tôn vinh. Đó là những bức thư mang đến cho người thuê tôi viết những niềm vui, hạnh phúc có thật. Nhưng buồn bã thay, phần lớn những lá thư còn lại chỉ là những lá thư tích tụ gian trá, lừa dối và bất nhân. Tôi đã dùng tài năng văn chương chữ nghĩa của mình để có những ngôn từ rất đẹp, đầy lãng mạn yêu thương nhưng nó hoàn toàn trống rỗng và giả dối! Biết là vậy, đó là một công việc không đẹp, nhưng tôi vẫn phải viết theo những gì mà người ta muốn, người ta yêu cầu vì đó là công việc của tôi, một kẻ viết thư mướn kiếm tiền sinh nhai!

Trong cái lạnh lẽo giữ đông của Thuỵ Sĩ, ngồi một mình trên chiếc sô pha, hướng mắt qua khung cửa sổ dõi theo những bông tuyết lất phất rơi bên ngoài. Cảm giác cô đơn buồn chán lại đến, nhấn chìm tôi vào âm thanh than van, rên rỉ của những bản nhạc tình ái xa xưa đang phát ra từ dàn máy ở góc phòng. Đọc lại thêm một lần nữa truyện ngắn “Người Viết Mướn“ của tác giả Tiểu Tử, một người bạn văn nghệ quen biết nhau trên mạng vừa gửi cho tôi tối hôm qua. Đó là một câu chuyện khá thích thú. Ngôn từ và lối hành văn rất thật, lôi kéo người đọc nhưng đượm chút “mùi” cay đắng xót xa của nhân vật chính trong truyện. Một người đàn ông VN có ăn học, do hoàn cảnh đưa đẩy ông ta và gia đình đến định cư tại Côte d’Ivoire một quốc gia nghèo thuộc miền Tây Phi châu. Nhờ có khả năng Pháp ngữ, ông ta đã bước vào nghề “viết mướn” tại góc một ngôi chợ để sinh nhai.

Cốt truyện và suy tư của nhân vật trong truyện đã kéo ký ức của tôi trở lại với những năm tháng, thời gian mà tôi còn đi học tại Việt Nam. Ngày đó, khi vừa chập chững bước vào đại học với tí chút cảm khoái về văn chương, thơ phú, kèm thêm cá tính tếu đùa, chất liệu một học sinh Chu Văn An trong máu. Tôi cũng đã có nhiều lần sử dụng tài văn chương thô thiển của mình vào những chuyện rất vui, đáng nhớ trong suốt thời gian còn sống và làm việc trong nước. Hôm nay, khi ngẫu nhiên đọc truyện ngắn “Người viết mướn” tôi muốn  dành khoảng thời gian rảnh rỗi trong cái lạnh lẽo này để gò nắn chữ nghĩa, viết ra một vài câu truyện làm vui cho chính mình, cũng để kỷ niệm cho những người bạn thân thiết, tếu hài của tôi. Có thể vài ba người, hiện nay vẫn còn hiện hữu chốn nhân gian nhưng cũng có những người đã trở về với đất đá vô tri. Dĩ nhiên tôi cũng không quên dành tặng riêng cho những người, họ là những nhân vật chính mà tôi đã viết những bức thư mướn cho họ trong ký ức buồn vui này.

Những lá thư viết cho một cuộc tình có hậu

Ngày đó, vào khoảng năm 1955 khi chuyển từ Đà lạt về lại Sài Gòn, gia đình tôi cư ngụ tại một con xóm lao động, nghèo khổ cuối đường Tô Hiến Thành, được gọi là xóm Tre. Cư dân trong xóm toàn là du đãng, lính tráng và đĩ điếm. Thời gian đó tôi đã 9 tuổi nhờ biết đọc biết viết và làm được 4 phép tính nên được vào thẳng lớp tư (lớp 2 ngày nay) trường tiểu học Chí Hoà. Trong xóm cũng có một thằng bé lớn hơn tôi một tuổi tên gọi là Phước Đen, cũng học lớp tư nhưng khác lớp, khác thầy với tôi. Gia đình Phước ở cuối xóm, còn tôi ở khoảng giữa xóm, nhờ những lần chơi đùa với nhau ở trường cũng như trong xóm nên tình thân của chúng tôi cũng khá tốt. Bố của Phước đạp xích lô nên mọi người gọi là ông Tư Xích Lô. Việc đạp xích lô của ông Tư rất vi vu, lúc sớm lúc muộn, thích thì đi không thì ở nhà. Nhất là vào những ngày cuối tuần trong xóm có hát vọng cổ hay ăn nhậu thì chuyện đi làm hôm đó và cả ngày hôm sau của ông Tư coi như không có. Ông cần nghỉ ngơi để thổi đi một ngày mệt nhọc với vui ca, ăn nhậu. Còn bà Tư, việc đi chợ nấu nướng cho chồng con cũng vậy, lúc nấu, lúc không. Bất cứ khi nào cần bà chỉ sai đứa trẻ nào đó trong xóm ra tiệm cơm ở đầu ngõ là có, khỏi cần phải nấu nướng vì bà còn nhiều việc khác phải làm.

Chiếc phản gỗ kê ngoài hiên trước của căn nhà của ông bà Tư, được che chắn mưa nắng khá tốt là nơi dành riêng cho những bà trong xóm “gầy sòng“ tứ sắc. Bà Tư lo việc cung phụng nước uống, thức ăn cho khách chơi bài và thu tiền “sòng”, chỉ khi nào thiếu tay chơi bà mới nhập cuộc để đợi chờ thành viên đến chậm.

Phước Đen là con trai duy nhất của ông bà Tư nên cuộc sống vật chất của nó được coi là khá đầy đủ so với những đứa trẻ trong xóm nhất là so sánh với tôi. Thỉnh thoảng trong giờ ra chơi, hay trên đường đi hay về học Phước Đen thường chia sẻ cho tôi vài miếng bánh, chiếc kẹo, cây kem… vì biết rất rõ sự thiếu thốn và thèm muốn của tôi.  Dù học cùng trường nhưng khác lớp, tôi cũng không biết sự học hành của Phước ra sao và cũng không biết chính xác Phước học đến lớp nào rồi bỏ ngang. Nhưng tôi chắc chắn Phước không hoàn tất bậc tiểu học vì thời đó lứa tuổi của chúng tôi hàng năm vẫn còn tổ chức thi lấy bằng tiểu học nhưng tôi đã không thấy Phước trong ngày đi thi! Từ đó, tôi không liên hệ nhiều với Phước nữa, nhưng thỉnh thoảng thấy Phước hoà nhập với nhóm du đãng lớn tuổi hơn, chuyên ăn cắp ăn trộm trong khu vực. Với sự khác biệt đó, sự liên hệ, chơi đùa với Phước và tôi coi như chấm dứt.

Sau khi xong tiểu học, tôi đậu vào lớp đệ thất Chu Văn An, việc học của tôi đã rẽ sang con đường mới. Trường học ở xa, thời gian, việc học hành bận rộn hơn, đó cũng là lý do tôi ít hoà nhập vào những cuộc chơi đùa với lũ trẻ trong xóm như xưa nữa. Khoảng 1 năm sau khi tôi lên lớp đệ lục, bố tôi bị đổi lên Sư Đoàn 22 bộ binh trên Kontum, mẹ tôi bị bệnh liên miên… cuộc sinh nhai của gia đình tôi thực sự bước vào khó khăn. Dù mới ở tuổi 13, 14, hàng ngày sau giờ học tại trường, tôi phải tìm cách kiếm tiền như bán báo, xách nước “phông tên” cho vài cư dân trong xóm để giúp đỡ gia đình. Việc xách nước “phông tên” của tôi cũng không đơn giản, nhất là vào buổi chiều tối, nhiều người lấy nước nên phải xếp hàng, chờ đến phiên mình nhiều khi cũng mất cả giờ đồng hồ. Đã thế những kẻ gánh nước mướn chuyên nghiệp mang thùng ra xếp dành chỗ trước thì việc chờ đợi còn lâu hơn nữa.

Một hôm khi tôi đang xếp hàng để lấy nước, thình lình Phước từ phía sau đến vỗ vai tôi, hỏi chuyện vu vơ. Tôi cũng chẳng giấu giếm kể cho Phước nghe hoàn cảnh gia đình và công việc mình đang làm. Phước hướng ánh mắt nhìn tôi, buông tiếng thở dài nho nhỏ ra chiều ái ngại rồi Phước dẫn tôi đến giới thiệu với vài người gánh nước mướn chuyên nghiệp. Phước nói gì với họ một lúc, tôi cũng không nghe rõ. Cuối cùng Phước vỗ nhẹ vào vai tôi và nói:

-Từ nay mày không phải xếp hàng nữa. Cứ mang thùng đến nói với những người quen của tao, họ sẽ nhường chỗ cho mày lấy nước, khỏi phải chờ đợi.

Nhờ sự can thiệp của Phước, việc lấy nước “phông tên“ của tôi từ hôm đó rất nhanh chóng, không còn phải chờ đợi, nhờ vậy tôi có nhiều thời gian cho học hành hơn. Vào khoảng đầu năm lớp đệ ngũ, bố tôi được trở lại Saigon, cuộc sống của gia đình tôi đã có phần dễ chịu hơn. Gia đình tôi bán nhà chuyển sang xóm 521 Lê văn Duyệt, mà chúng tôi gọi là xóm nhà cháy. Con hẻm này chạy song song với Tô hiến Thành, có rất nhiều ngõ ngách bắt ngang nên từ căn nhà mới đến xóm Tre xưa cũ cũng không xa lắm. Tuy vậy với thời gian sự liên hệ của mọi người trong gia đình tôi với xóm tre càng lúc càng thưa thớt. Hàng năm chỉ vào dịp lễ tết, hay những lúc rảnh rỗi tôi mới có dịp đi cùng bố mẹ thăm viếng thoáng qua vài ba gia đình thân quen, họ hàng trong xóm mà thôi. Trong những lần thăm viếng xóm xưa đó, chưa một lần nào tôi gặp Phước.

Mãi đến khi tôi hoàn tất xong cấp trung học, bước vào đại học (1966), trong lần tôi sang ăn giỗ tại nhà ông bác ruột vẫn còn cư ngụ tại đó. Lúc đi về bất chợt tôi và Phước gặp nhau ở đầu ngõ, cả hai chúng tôi ngạc nhiên giương mắt nhìn nhau vì những đổi khác rất nhiều sau gần 6, 7 năm không gặp.

Phước thực sự là một thanh niên khá đẹp trai, quần áo chỉnh tề, hoàn toàn không có dấu tích gì đen đúa như tên gọi lúc trẻ thơ. Sau một lúc bỡ ngỡ hỏi han dồn dập về những thay đổi của nhau, Phước kéo tôi vào một quán ăn ở đầu xóm, chúng tôi nói chuyện với nhau cả giờ đồng hồ. Phước ngẩn ngơ gần như chuyện khó tin kèm theo sự cảm phục khi biết tôi vẫn còn đi học và lại học đại học, tương lai ra ông kỹ sư nữa. Phước cho biết ông bà Tư, bố mẹ của Phước đã mất vài ba năm sau khi gia đình tôi dọn ra khỏi xóm. Chán nản và cô đơn vì chẳng có ai thân thiết, Phước bỏ xóm hoà nhập với nhóm bạn du đãng vô gia cư trong khu vực được vài năm nhưng cũng thấy không ổn rồi tìm cách thoát ra. Nhờ có tờ giấy hõan dịch gia cảnh và sự giúp đỡ của người quen, hiện nay Phước đang làm việc cho một hãng thầu phim ảnh, chuyên cung cấp phim cho các rạp ciné trong Saigon. Công việc của Phước là chuyên chở phim từ rạp này đến rạp khác cho kịp giờ chương trình chiếu phim thường trực.

Phước cũng cho tôi biết nhờ sự giới thiệu của họ hàng, vài tuần lễ trước Phước quen biết với Thu Can, con gái út của gia đình khá giàu có tại Cần Giuộc, Long An. Chuyện quen biết mới chỉ qua duy nhất lần gặp mặt giới thiệu đầu tiên đó mà thôi, nhưng cả hai đã có vẻ mến nhau. Qua lời tâm sự của Phước, nhất là khi nói về Thu Can, ánh mắt, lời nói của Phước đã thay đổi hoàn toàn. Những tiếng chửi thề cố hữu của Phước khi nói chuyện trước kia đã biến mất, thay vào đó là âm thanh nhẹ nhàng, tràn đầy xúc cảm trong ánh mắt mơ màng của một người đang yêu. Đúng vậy, tôi đã nhìn thấy rõ ràng tình yêu đã thay đổi một cách kỳ lạ người bạn ấu thơ nhiều tật ách thành một gã si tình, lịch sự.

Phước cũng chẳng giấu giếm cho tôi biết cái khó khăn nhất của Phước hiện nay là viết thư trao đổi tâm tình với Thu Can. Một khả năng mà Phước tự nhận mình hoàn toàn yếu kém, đang làm cho Phước khổ sở. Phước cho biết, chỉ khoảng một tuần lễ, sau lần gặp mặt đầu tiên, hắn đã nhận được một lá thư dài 2 trang giấy của Thu Can. Thu Can kể lể cho hắn biết về những sở thích, những hy vọng cho tương lai mà cô ta đang mơ hồ tìm thấy từ hắn trong ngày đầu tiên gặp gỡ. Thu Can mong muốn sẽ nhận được từ hắn những lá thư thật dài, kể lể về những buồn vui trong công việc hàng ngày và cả những ước vọng cho cuộc quen biết của hắn và cô ta…

Lá thư đầu tiên với lời lẽ tràn đầy mật ngọt, mở rộng con tim của Thu Can đã cho Phước biết rằng tình yêu của hắn đã có một khởi đầu quá hoàn hảo. Vấn đề còn lại là hắn có tài năng để làm cho tình yêu đó đậm đà, gần gũi hơn và trở thành hiện thực hay không mà thôi. Phước cho biết, ngay sau khi nhận được lá thư đầu tiên. Hắn đã mất cả một đêm không ngủ, cố gắng gò nắn ý tưởng, lời văn cho lá thư hồi âm, nhưng tất cả đã bị xé bỏ vì câu cú không gọn, ý tưởng lủng củng tối nghĩa. Cuối cùng vì không muốn Thu Can hiểu lầm, mà nghĩ hắn có ý lơ là với tình cảm của cô ta. Phước đã viết một lá thư ngắn ngủi, than van vì bận rộn với công việc nên chưa thể viết dài hơn và hứa lá thư sau sẽ kể lể, tâm sự nhiều hơn. Làm như vậy Phước nghĩ như một giải pháp trì hoãn tạm thời mong có thời gian tìm ra một cách khác tốt hơn.

Nhưng chỉ khoảng hơn một tuần lễ, sau khi gửi lá thư ngắn ngủn cho Thu Can, hắn lại nhận được lá thư thứ 2 dài hơn, nặng tình hơn. Thu Can lo lắng cho hắn vì công việc mà ốm bệnh, khuyên răn đủ điều cũng như nhắn nhủ hắn phải giữ gìn sức khỏe. Bức thư lại càng làm cho hắn áy náy và buồn bực với tài năng viết lách quá tệ của mình hơn.

Phước kể cho tôi nghe như muốn đổ ra tất cả những lo lắng, chán nản vì không biết làm sao để viết được một lá thư hồi âm đúng nghĩa cho Thu Can được yên lòng. Chẳng ngại ngần Phước móc trong túi áo ra 2 lá thư của Thu Can nhấn hẳn vào tay tôi, với vẻ chán nản:

-Mày cứ đọc đi, xem có thể giúp tao vài ý kiến được không?

Với lời yêu cầu quá chân tình của Phước và cũng có tí chút tò mò muốn biết về Thu Can ra sao. Người con gái có khả năng làm đổi thay hoàn toàn cá tính của Phước, một con người đầy tật ách, sinh ra và lớn lên trong một gia đình có ông cha, bà mẹ kinh hoàng như ông bà Tư. Đọc qua vài lần 2 lá thư của Thu Can, quá dễ dàng cho tôi hình dung ra một cô gái có tâm hồn đơn giản,  sinh ra, trưởng thành trong cái nôi văn hoá đồng quê thanh bình, trù phú của miền Nam. Lối hành văn có tí chút ngây thơ, trực diện với chủ đề. Không có những ngôn từ bóng bẩy, kín đáo khi diễn tả ước mơ của một người có trình độ cao trong văn chương. Đọc xong 2 lá thư, trầm tư một tí, đưa tay đập nhẹ lên cánh tay của Phước, tôi nói:

-Có gì đâu mà mày phải khốn khổ với văn chương, chữ nghĩa như vậy? Rất đơn giản, mày cứ lần lượt trả lời những gì cô ta muốn biết. Thêm vào đó viết vài ý kiến, suy nghĩ của mày cho có vẻ hoà đồng với cô ta, thế là xong một lá thư đúng nghĩa. Tao tin là mày làm được mà!

Cặp lông mi dài và đen chau lại, tỏ vẻ thất vọng, Phước trả lời:

-Nói như mày thì còn gì là khó khăn nữa! Tao đã cố gắng cả chục lần, nhưng rồi cũng chẳng được! Cuối cùng chỉ thu gom lại không được một nửa trang giấy! Chính tao đọc lại cũng thấy lờ mờ không biết mình viết đúng hay sai thì làm sao mà gửi đi được!

Rồi cứ thế tôi và Phước nói qua nói lại một lúc nhưng cũng chẳng đến đâu. Với tí chút bực mình tôi nhìn hằn, nói như gắt:

-Không lẽ mày muốn tao viết thư thay cho mày sao?

Tôi tưởng câu nói bực bội đó làm cho Phước không vui, nhưng ngược lại. Đôi mắt Phước sáng lên, vẻ mặt đầy hớn hở! Hắn đưa tay vỗ liên hồi lên bàn tay tôi, vui mừng nói:

-Đúng là ngu thật! Thế mà tao không nhận ra. Mày viết nháp cho tao, rồi tao sao chép lại và gửi cho em, thế là tốt nhất, khỏi phải rắc rối, lo buồn cho mệt xác!

Trong lúc tôi còn ngần ngẩn ngơ với ý tưởng lạ kỳ đó. Phước lại vỗ vai tôi thêm vài cái nữa, rất tươi cười, hắn nói tiếp:

-Mày cố giúp tao đi, tao sẵn sàng chi trả cho mày ăn nhậu thoải mái bất cứ tốn kém ra sao cũng được, đừng lo!

Thế là sau một lúc bàn luận, tôi chấp nhận cái công việc “viết thư tình mướn” cho Phước. Đổi lại hắn hứa cung phụng cho tôi những bữa ăn nhậu. Thêm vào đó, Phước sẽ cho tôi những vé mời ciné từ công việc đang làm của hắn. Dĩ nhiên trước khi bước vào công việc viết mướn này, tôi yêu cầu tất cả những lá thư của Thu Can gửi cho hắn sau này cũng phải đem cho tôi đọc. Hắn còn phải kể lể tâm sự cũng như cảm xúc của chính hắn khi nhận và đọc lá thư của Thu Can. Hắn phải nói với tôi tất cả những gì hắn muốn viết trả lời. Tôi sẽ dựa vào những tâm tư, suy nghĩ của hắn và Thu Can để thay hắn viết lá thư cho hợp lý. Để cho Phước an tâm, tôi cho hắn biết làm như vậy, hoàn toàn không có ý tò mò, soi mói vào chuyện tình yêu riêng tư của hắn. Ngược lại muốn gián tiếp kéo hắn vào cảm xúc thực sự của mối tình để nếu có những lần hẹn hò, gặp gỡ Thu Can, hắn sẽ không bị ngỡ ngàng hay luống cuống vì sự khác biệt giữa con người thực tế và người trong thư từ, văn chương của hắn.

Đúng như vậy, suốt thời gian khoảng gần một năm trời yêu thương trước khi dắt nhau vào tình nghĩa vợ chồng. Với bao nhiêu lần hò hẹn, khi thì Thu Can lên Saigon thăm hắn. Khi thì hắn xuống Long An tìm người yêu trong mộng kéo nhau ra quán nước tâm tình … Tôi có cảm tưởng vở kịch “ viết thư tình mướn “ của tôi hoàn toàn trôi suốt. Không một lần nào Phước tỏ ra không vừa ý hay có tí gì bực bội khi mang lá thư của người yêu cho tôi đọc, cũng như lúc hắn mơ màng kể lể những suy nghĩ, ước mơ, mong đợi của hắn cho tôi nghe.

Lúc tôi viết nháp, hắn ngồi im lặng đưa mắt nhìn theo ngòi bút chuyển động liên tục của tôi trên mặt tờ giấy với vẻ cảm phục, đầy thích thú vui tươi. Thỉnh thoảng có những sự việc tôi muốn hỏi về hắn hay Thu Can, hắn trả lời tôi với tất cả chân tình, hoàn toàn không một tí gì giấu giếm. Đôi lúc tôi có cảm tưởng hắn lột xác hoàn toàn, không còn một tí gì của thằng Phước Đen đầy tật ách mà tôi đã nhiều lần muốn tránh xa trong quá khứ. Hắn thực sự là một người bạn rất chân thành, hiền lành và hình như có chút lãng mạn mà tôi rất vui mừng được quen biết. Tình yêu đúng là một phép màu, đã thay đổi Phước một cách kỳ lạ! Từ một kẻ du đãng, trộm cắp thành một con người ngồi trước mặt tôi với khuôn mặt đờ đẫn, ánh mắt xa xa đang dìm mình vào mơ mộng !

Viết nháp xong lá thư, tôi đọc chậm rãi cho hắn nghe một vài lần rồi thêm bớt hay sửa chữa những gì mà hắn yêu cầu trước khi đưa cho hắn mang về nhà nắn nót viết gửi cho Thu Can. Suốt nhiều tháng trời, mỗi khi nhận bản nháp viết thư của tôi, Phước vui mừng như một đứa trẻ được quà. Hắn đưa bàn tay vỗ liên hồi vào vai tôi với những lời cảm kích, khen tặng. Dĩ nhiên hắn không bao giờ quên mời tôi những bữa ăn thừa mứa tại các tiệm ăn. Thỉnh thoảng hắn còn nhét vào túi tôi món tiền nho nhỏ hay vài tấm vé mời ciné miễn phí.

Cứ như vậy, cuộc tình đẹp đẽ đó được kéo dài nhờ những “lá thư tình viết mướn“ của tôi. Rồi những lần hò hẹn của hắn và Thu Can được diễn tiến trong êm đẹp khoảng gần một năm trời thì đến giai đoạn nở hoa kết trái. Phước bỏ việc làm cho hãng phim, cùng với Thu Can lo việc đám cưới rồi về Long An làm việc cho người anh cả của Thu Can, đang làm chủ một cơ sở khá to chuyên buôn bán nông cụ tại trung tâm thị xã Long An. Trước ngày cưới vài ba ngày Phước trực tiếp mang thiệp cưới đến tận nhà và khẩn khoản mời tôi tham dự. Nhưng thời gian đó, tôi đang bận rộn với thi cử, gia đình cũng đang luộm thuộm với sinh nhai nên không đi được. Tôi chỉ viết thiệp chúc mừng và hứa trong tương lai, khi có dịp sẽ đến tận nhà thăm viếng hắn mà thôi.

Từ khi Phước làm việc cho ông anh Hai tại Long An, chúng tôi không còn dịp gặp nhau thường xuyên như trước nữa. Chỉ duy nhất một lần, vào khoảng năm 1970 khi gia đình tôi chuẩn bị di chuyển xuống khu Bà Quẹo. Vì công việc Phước phải lên Sài Gòn có tạt vào nhà tôi nhưng đúng lúc tôi không có nhà. Qua lời mẹ tôi cho biết Phước được gia đình bên vợ giúp đỡ, đã mở một cơ sở thương mại riêng, chuyên buôn bán dụng cụ xây cất tại trung tâm thị xã Long An, và cũng đang chuẩn bị chờ đón đứa con thứ 2 vào cuối năm.

Mãi đến khoảng đầu năm 1971, trong lần xuống Rạch Giá thực tập về ngư sản, trên đường về lại Saigon tôi đã tạt vào Long An thăm gia đình Phước. Đúng là một mái gia đình hạnh phúc, 2 đứa con ngoan ngoãn, xinh đẹp, người vợ nhu mì, ăn nói nhỏ nhẹ với chồng con. Phước không còn một tí dấu tích gì, dù rất nhỏ dáng dấp của một thằng bé lười biếng, lêu lổng, bỏ ngang việc học trong cái xóm Tre phức tạp của hơn 10 năm về trước nữa. Hiển hiện ngày nay, Phước với bộ quần áo chỉnh tề, đang ở vị trí một ông chủ của một cơ sở khá to với khoảng hơn chục nhân viên.

Buổi tối hôm đó khi mấy đứa con yên ngủ, vợ chồng Phước và tôi ngồi quanh chiếc bàn bằng đá trong góc sân uống trà, nói chuyện. Có chút ngại ngần, Thu Can đưa mắt nhìn Phước rồi hướng sang tôi, nhỏ nhẹ nói:

-Vợ chồng em cám ơn anh Hai, nhờ anh mà chúng em mới được như ngày nay.

Tôi ngẩn ngơ, chau mày ra vẻ không hiểu ý tứ lời nói của Thu Can. Phước cười thành tiếng, đưa tay vỗ mấy cái lên vai tôi, nói thay vợ:

-À, cái chuyện ngày trước, mày đã thay tao viết thư cho Thu Can. Tao đã kể tất cả cho vợ tao nghe rồi. Hôm nay gặp được mày nên bà ấy cám ơn mày đó!

Tôi đã hiểu lý do và cũng không ngờ cái chuyện vớ vẩn đó mà Phước cũng nói cho vợ biết. Chuyển ánh mắt nhìn thích thú về Thu Can, trong nụ cười vui tôi trả lời:

-Tôi chỉ đóng vai trò của một cái cassette thu và phát ra những tiếng nói trung thực của con tim hắn muốn gửi cho chị mà thôi, chứ có gì để chị phải nói đến ơn với huệ cho phiền phức.

Ngưng lại một tí, nhìn thẳng vào mặt Phước, tôi cười khá to, nói tiếp:

-Mà chị có biết không? Hắn đã phải tốn biết bao nhiêu tiền để cung phụng cho tôi những bữa ăn nhậu phủ phê. Chưa tính đến tiền cà phê, tiền dằn túi cho tôi và bao nhiêu vé mời xem phim miễn phí nữa đó!

Tiếp theo là những câu chuyện rất thật nhưng đầy hài hước khi chúng tôi nhắc lại những câu văn, ngôn từ ướt át, lãng mạn mà chính do tôi tạo ra, nó đã làm đẹp một tình yêu có hậu.

Sáng hôm sau, lúc chuẩn bị lên xe trở lại Sài Gòn, đứng trước dãy nhà 4 tầng lầu, cơ ngơi khá đồ sộ của vợ chồng Phước. Tôi im lặng đưa mắt nhìn Phước, đang phân công việc cho cả đám nhân viên. Tôi tự hỏi: “Con đường vào đời của tôi với hàng chục năm chăm chỉ, thức khuya dậy sớm lo chuyện học hành thi cử… có thật sự là chính xác và khôn ngoan không? Còn con đường của Phước, một người không bước qua cấp tiểu học, không đủ chữ nghĩa để viết một lá thư đơn sơ diễn tả cảm xúc của mình với người con gái mà anh ta yêu mê. Nhưng bây giờ, trước mặt tôi, Phước, con người của một thời đầy tật ách đang phân chia rạch ròi công việc cho hàng chục nhân viên một cách rất chuyên nghiệp. Con đường đi của anh ta có thực sự là sai lầm, thua kém con đường của tôi không ?

Với tí chút chán nản khi nhìn về mình. Hiện tại tôi vẫn miệt mài đến trường trong túng thiếu, tương lai vẫn mù mờ. Buông nhẹ tiếng thở dài, rồi im lặng, cho qua những điều rất thật trước mắt mà tôi không muốn biết và cũng không có câu trả lời chính xác. Rồi tôi cúi đầu, uể oải xách chiếc ba lô, nói vài lời từ giã thân tình với vợ chồng Phước. Tôi lên xe trở về Sài Gòn trong tâm trạng buồn vui lẫn lộn khi nghĩ và nhìn về tương lai của mình.

(Hình minh họa: Pixabay)

Kiếp hải hồ, mỹ nhân ngư trong sóng biển

Rời bỏ căn nhà chật chội “Xóm nhà cháy“ trên đường Lê Văn Duyệt, gia đình tôi chuyển xuống một căn nhà có đất vườn khá rộng ở Bà Quẹo, thuận tiện cho việc chăn nuôi hơn. Sát bên căn nhà mới của tôi là một hẻm cụt với 5, 6 gia đình sinh sống. Ngay đầu hẻm là một căn nhà nhỏ lợp tôn cũ kỹ, sân trước căn nhà xếp ba chiếc bàn bằng plastic cùng với khoảng chục chiếc ghế gỗ dùng cho việc bán cà phê, nước uống, Đây là nơi kiếm sống của gia đình ông bà Sáu. Ông bà Sáu có 2 đứa con. Thằng Bôn 18, 19 tuổi, học xong bậc tiểu học rồi ở nhà giúp đỡ bố mẹ bán cà phê hay làm những công việc không chắc chắn như phụ hồ, khuân vác cho những gia đình hay cơ sở làm ăn nhỏ lẻ trong khu vực. Thằng Ẩn, em trai của Bôn 9 tuổi đang học cấp tiểu học. Ông Sáu ngày ngày tụ họp vài ba người cùng lứa tuổi gần nhà đánh cờ tướng hay vác cần “câu nhấp” ra những vùng trũng nước quanh khu vực câu cá lóc hay ếch. Hôm nào may mắn thu hoạch được nhiều thì đem bán lấy tiền tiêu dùng cá nhân, ít thì mang về cho bà Sáu nấu ăn hay làm đồ nhậu chiêu đãi bạn bè.

Dọn đến khu ở mới này, nhờ rộng rãi nên tôi xây dựng một dãy chuồng trại để nuôi heo gà. Mục đích kiếm sống còn tạo ra việc làm tại nhà, đỡ cực nhọc cho mẹ tôi hơn là việc buôn thúng bán bưng trên lề đường ở Sài Gòn như trước kia. Ngoài việc chăn nuôi, tôi còn pha trộn thức ăn gia súc cung cấp cho những người chăn nuôi nhỏ lẻ trong khu vực và các vùng lân cận. Việc mua bán vật liệu như cám, bắp, bột đậu nành, cũng như công thức pha trộn hay đặt mua thức ăn để pha trộn hoàn toàn do tôi tính toán. Còn việc cân đo từng thành phần trong công thức, đóng gói rồi đem cung cấp cho những người mua là việc của mẹ tôi. Công việc này khá nặng nhọc nên mẹ tôi phải thuê vài ba người trong xóm giúp đỡ. Thằng Bôn là người luôn luôn được mẹ tôi giao công việc này vì tính tình thực thà, chăm chỉ lại đang tuổi thanh niên nên việc mang vác rất dễ dàng.

Đối với cư dân trong khu vực, tôi là người rất được họ cảm mến, dưới mắt họ tôi học giỏi, siêng năng làm việc và biết giúp đỡ cha mẹ trong việc sinh nhai. Cũng chính vì cái nhìn nhiều ưu ái đó mà thằng Bôn coi tôi như một khuôn mẫu để noi theo. Mỗi khi gặp tôi trên đường hay đến nhà tôi giúp việc cho mẹ tôi, nó luôn luôn chào kính tôi với tất cả sự lễ phép, quý mến. Ngược lại tôi cũng coi nó như một đứa em thật sự. Tôi luôn luôn nói những lời động viên hay chỉ bảo bất cứ việc gì mà nó cần đến sự định hướng, khuyên nhủ của tôi. Như thường ngày, hôm đó sau khi rời thư viện, nơi mà hàng ngày tôi đến đó để học và làm bài cho đến khuya mới trở về nhà. Vừa dừng xe trước cổng nhà, chưa kịp mở cánh cổng, Bôn từ nhà của nó chạy vội ra, nói với tôi:

-Anh Hai, em muốn nhờ anh giúp cho em một chuyện được không ?

Dĩ nhiên là tôi sẵn sàng vì luôn luôn coi nó như một thằng em, nhiều tính tốt và dễ thương. Mở cánh cổng, dẫn xe vào nhà xong, hai chúng tôi đến ngồi trên chiếc ghế dựa bằng đá ở góc vườn. Tôi đưa mắt nhìn Bôn tỏ vẻ ý sẵn sàng chờ đợi nghe sự yêu cầu của nó. Với bộ mặt có chút ngượng ngùng Bôn cho biết, vài ba tuần trước, Hồng em gái của Huy cũng là bạn của nó, cùng với bố mẹ lên Saigon đón Huy về Tuy Hoà sống với gia đình. Bôn gặp và quen Hồng trong dịp đến chơi với Huy. Qua vài lần liên hệ, nó và Hồng đã có nhiều cảm mến nhau và cũng được cả gia đình Hồng khích lệ. Khoảng gần 2 tuần trước, Hồng và gia đình đã về lại Tuy Hoà. Lúc chia tay Hồng cho nó địa chỉ, tỏ ý sẵn sàng liên hệ trao đổi thư từ với nó để hiểu biết và gần gũi hơn trong tương lai. Ngay tuần vừa rồi Hồng đã viết cho nó một bức thư đầu tiên khá dài và mong chờ nó hồi âm.

Móc trong túi ra một lá thư giấy “pơ lua” màu hồng, xếp gấp rất vuông vức, Bôn đưa tận tay tôi và nói:

-Anh Hai đọc đi! Hồng viết cho em rất hay, em đọc lá thư rất thích. Cô ta mong đợi em hồi âm, nhưng nói thật với anh, em chưa bao giờ biết viết thư cho ai, nhất là cho bạn gái. Đọc thư của Hồng viết, em chắc chắn mình không thể nào đủ tài để viết một lá thư cho Hồng mà không bị cô ta chê bai!

Ngần ngừ tí chút, Bôn nói tiếp:

-Suốt mấy ngày qua, em cũng đã cố gắng viết thử lá thư hồi âm nhưng coi vẻ không ra làm sao! Em nghĩ nếu viết thư kiểu đó mà gửi cho Hồng thì chắc cô ta cũng chán mà quên em mà thôi. Chợt nhớ đến anh, đến những lần anh và nhóm bạn đến nhà anh ăn nhậu, mọi người, ai ai cũng văn thơ rôm rả. Đứng bên ngoài nghe lén, em cũng phải đê mê, cảm phục. Chính vì vậy gặp anh hôm nay, mong anh giúp em hay nhờ ai đó trong nhóm bạn của anh viết lá thư hồi âm cho Hồng hộ em. Em sẽ trả tiền công cho họ đúng nghĩa.

Nghe Bôn nói, hình ảnh của Phước hiện ra trong trí nhớ tôi. Tôi nói thầm trong bụng : Lại một “ đệ tử của tình si !“ nhưng thiếu ngôn từ, mặc cảm với khả năng văn chương của mình. Nhưng lại muốn có được những lá thư mùi mẫn để  “cưa đổ” một nhan sắc trong mơ! Ngần ngừ tí chút tôi giở lá thư của Hồng ra đọc. Đúng như Bôn nhật xét, cô bé này có trình độ học vấn khá tốt, bỏ xa Thu Can vợ của Phước. Câu văn viết rất chỉnh tề, thỉnh thoảng xen kẽ vào vài ngôn từ trong văn chương, thơ nhạc rất chính xác, làm cho người đọc thích thú, muốn tò mò với những cái mà cô ta giải bầy. Đúng là một cô gái có khả năng viết lách. Có kiến thức tốt về văn chương lại thích thơ văn, nghệ thuật. Trả lại lá thư cho Bôn, với tí chút trầm tư tôi nói với Bôn :

-Đúng như vậy, Hồng viết thư rất hay và trí thức. Anh nghĩ Hồng thuộc gia đình có học thức và chính cô ta cũng học hành đến nơi đến chốn. Em muốn viết một lá thư cho cô ta vui lòng, vừa ý không đơn giản tí nào cả.

-Thì em đã nói với anh rồi. Em không thể nào viết được lá thư hay như thế,  dù chỉ bằng một góc cũng khó với em rồi. Nhưng khổ nhất là em rất thích và không muốn cô ta coi thường mà ghét bỏ, rời xa em. Anh cố giúp em, chắc chắn anh làm được mà!

Cứ như vậy Bôn cầu khẩn tôi liên tục. Thấy khó từ chối thằng em và cũng có cảm giác thích thú để viết thư cho một cô gái có trình độ văn chương như Hồng. Tôi đã gật đầu đồng ý! Rồi cũng như với Phước trước kia, tôi nói rõ những điều cần thiết mà Bôn phải cộng tác với tôi. Phải thật thà kể lể cho tôi hiểu chính xác những suy tư của chính Bôn và Hồng, cũng như phải đưa những lá thư của Hồng viết cho tôi đọc. Đó là những điều tôi cần cho việc cải trang “nhân vật” để viết được những lá thư chính xác, không bị khập khễnh trong “ việc vun đắp “cho tình yêu của hai người tốt hơn.  Thế là sau một lúc bàn cãi, chỉ dẫn, tôi lại có thêm một lần nữa lợi dụng cái tài luồn lách ngôn ngữ trong văn chương, thơ phú của mình. Tôi lại phải bước vào cái nghề không giống ai “viết thư tình mướn“ cho người khác. Lại đóng vai trò miễn cưỡng vun đắp cho một cuộc tình mà tôi hoàn toàn không dính dấp.

Rồi cũng như lần viết thư cho Phước trước kia. Cứ khoảng vài ba tuần lễ tôi lại được đọc những lá thư không phải của mình, nhưng vẫn phải đọc kỹ lưỡng. Suy nghĩ tìm nguồn cảm hứng, cố ép suy tưởng của mình suy tư, ẩn ý của người viết lá thư để viết ra những lá thư tình lãng mạn, ướt át nhưng không phải là một lá thư thấp kém văn chương mà gửi đến cho đối tượng. Tôi phải gò nắn văn chương làm sao cho người nhận thư thích thú mà gắn kết hơn với Bôn, người hàng xóm đang chập chững bước vào yêu đương của tôi! Nhiều khi viết xong lá thư cho người bạn trẻ, tôi đọc lại mà chính tôi cũng phải buông tiếng cười vang, tự khen tài nghệ hoá thân của mình đến mức đáng nể!

Đúng như vậy, viết những lá thư gửi cho Hồng, không dễ dàng, đơn sơ như những lá thư tôi viết cho vợ của Phước trước kia.Với Hồng tôi tốn nhiều thời gian suy nghĩ, lựa chọn những ngôn từ lãng mạn nhưng cũng không quá suồng sã, thấp kém của người ít kiến thức. Câu cú, nội dung của lá thư phải ở trình độ cao cấp hơn. Đôi khi tôi phải chêm vào những câu thơ, những lời hát… để nhờ nó chuyển tải cảm xúc hay ý tưởng kín đáo mà tôi muốn cho Hồng (người đọc) phải tự suy nghĩ về một vấn đề mà người viết thư (là tôi, người viết mướn) muốn đề cập đến một cách kín đáo dành riêng cho Hồng.

Còn thêm một điểm khác biệt giữ 2 mối tình của Bôn và của Phước. Với Bôn và Hồng khoảng cách giữa Sài Gòn và Tuy Hoà quá xa xôi, việc  hò hẹn gặp nhau rất khó khăn, hoàn toàn không đơn giản. Ngược lại Phước và Thu Can, dễ dàng hơn, chỉ cần ngồi lên chuyến xe đò, sau khoảng 1, 2 giờ đồng hồ là có thể gặp nhau, lang thang phố phường rồi trở về nhà lúc chiều tối mà chẳng lo phiền phức với gia đình. Trong tình yêu, nhất là khi tình cảm mới chỉ ở điểm bắt đầu, qua một vài lần gặp thoáng qua như Bôn và Hồng rồi xa nhau, liên hệ với nhau qua thư từ. Tôi có cảm giác nó có cái gì mông lung, không thực tế. Tình yêu mà chỉ dựa trên những câu văn ướt át, mang âm thanh của tưởng tượng không phải thực sự do Bôn mà là do tôi sáng tạo ra hình như có cái gì đó mơ hồ không thật thì phải ? Đã thế tình yêu của Bôn và Hồng không có những cuộc hẹn hò thường xuyên để tìm hiểu nhau như Phước và Thu Can…. Tôi có linh cảm cuộc tình này có cái gì đó giả tạo, không thực tế và nó sẽ không bền lâu được!

Với tôi, thư từ viết cho nhau đôi khi cũng chỉ là một dạng thức màu mè, nhất là thư viết về tình yêu, nó cho người ta cái cảm giác là mình đang có một tình yêu để bước vào đó trong mơ mộng. Nhất là khi tôi đọc vài lá thư của Hồng, tôi có cảm giác những lá thư của Hồng mang dáng dấp hình thức một bài văn chất đầy hình thức văn chương hơn là lời nói thực của con tim. Nhưng nghĩ cho cùng, những là thư tôi viết cho Bôn và cả cho Phước, cũng vậy mà thôi! Tôi đã không mang cái tài văn chương, chữ nghĩa của tôi mà dẫn người nhận thư và cả người nhờ tôi viết thư vào mơ mộng hay sao?

Theo tôi loại tình yêu này chỉ là tình yêu trong trong sương khói tưởng tượng không bao giờ có thực! Hoạ chăng có một động lực nào đó giúp đỡ hay vun vén tích cực cho tình yêu gắn bó và thực tế hơn. Chẳng hạn như sự hối thúc, vun vào từ cha mẹ, họ hàng. Hay chính người trong cuộc có ưu điểm vượt trội làm cho đối tượng si mê, ham muốn như giàu có, thế lực, tài năng… Những cái đó sẽ làm cho tình yêu đến gần hơn với thực tế và hy vọng tiến đến điểm trọn vẹn. Mà Bôn, người bạn trẻ của tôi thì quá thiếu những cái đó! Tôi không thể nói với Bôn những điều đó hay khuyên Bôn không nên quá hy vọng vào những ngôn từ rất đẹp, rất lãng mạn trong những lá thư của Hồng để rồi phải thất vọng. Nhưng biết sao hơn là im lặng vì thế nào thì tôi chỉ là người viết thư tình yêu mướn!

Cuộc tình yêu xây tạo bằng những lá thư bay bướm “viết thuê” của tôi kéo dài được khoảng hơn một năm. Tôi cũng không nhớ rõ là tôi đã phải đọc và viết bao nhiêu lá thư cho Hồng trong vai trò một kẻ si dại tên Bôn. Nhưng tôi vẫn phải viết cho người bạn, hàng xóm trẻ mà tôi rất mến thương, dù tôi luôn luôn mang cảm giác cuộc tình yêu đó sẽ chỉ là những ảo ảnh, mang sắc thái của sự giải trí, tìm vui trong thư từ mà thôi.

Đúng như vậy, những lá thư hào nhoáng với những ngôn từ rất lãng mạn mà Hồng cũng như tôi viết ra nó dẫn dụ người đọc thích thú. Chính cá nhân tôi và có lẽ cả Hồng khi viết những ngôn từ bay bướm đó chúng tôi cũng có những cái khoái cảm của kẻ đang dìm mình vào cái ướt át của văn chương, từ ngữ. Rất nhiều lần, tôi hình dung ra, đến một điểm thời gian nào đó cuộc tình “ viết lách “ này sẽ phải đi vào ngõ cụt và kẻ si tình không thực tế sẽ phải nhận lấy những buồn đau mà thôi. Trực giác cho tôi biết kẻ đó có phần rất lớn là Bôn, người bạn trẻ mà tôi rất thương mến. Nhưng tôi cũng chẳng có tư cách và cũng chẳng nỡ lòng mà ngăn cản Bôn khi nhìn thấy anh ta luôn luôn dìm mình trong khoái cảm của cuộc tình yêu trong mộng.

Chính cá nhân tôi đã có ít nhiều từng trải để hiểu rằng, sự khôn ngoan, trưởng thành trong tình yêu đôi khi không đến bằng suy luận, tính toán hay truyền đạt khôn ngoan từ người khác. Mà nó phải đến bằng những đau buồn, thất bại của chính mình. Nghĩ như vậy tôi đã giữ im lặng không nói suy nghĩ của mình với Bôn. Qua những bức thư nhận từ Hồng cho tôi biết có cái gì đó Hồng không thật thà. Hồng chỉ là một người thích và có tài viết lách, cô ta chỉ muốn bước vào thế giới  mơ mộng trong văn chương mà thôi.

Rồi một hôm, cái gì phải đến, nó đã đến. Khi tôi vừa về đến cổng nhà, Bôn với vẻ thất thần đến gần tôi trong dáng điệu chán chường bực bội, hắn lắc nhẹ đầu, nói khá to tiếng:

-Khốn nạn! thật là khốn nạn! Cô ta đã lừa dối em anh Hai ạ! Em đã lầm lẫn với biết bao nhiêu mơ mộng, đợi chờ nhưng cuối cùng chỉ là xảo trá, lưu manh!

Không nói ra nhưng tôi cũng đoán được ngày tàn của mối tình chỉ xây tạo bằng những lá thư hoa hoè (của tôi và Hồng) đã bước vào điểm kết thúc. Bôn cho biết tuần vừa rồi có dịp theo người Bác họ đi Nha Trang. Vì quá vội vàng nên không thể nhờ tôi viết thư báo cho Hồng biết trước là sẽ dành thời gian đến Tuy Hoà để gặp và thăm Hồng. Khi đến Tuy Hoà, lúc một mình đứng chờ taxis trước nhà ga xe lửa. Bôn nhìn thấy Hồng, người yêu trong mộng của mình, ngồi sau chiếc Honda do một người đàn ông khá sang trọng cầm lái. Cô ta ôm xiết người đàn ông, miệng cười vui, đùa giỡn ra vẻ đã quen biết từ lâu, thân thiết… Họ đúng nghĩa là một cặp tình nhân.

Nhìn thấy sự việc quá rõ ràng nhưng Bôn vẫn cố tìm ra những lý do để mong cô gái đó không phải là Hồng. Người mình yêu thương, người đã viết cho mình những lá thư nặng tình trong suốt hơn một năm qua. Bôn tự nói, không thể nào như thế được, Hồng không phải là dạng người của dối trá. Người mà mình nhìn thấy chỉ giống Hồng mà thôi! Với những suy nghĩ như vậy, Bôn đã có được tí chút bình thản bước vào quán nước trước nhà ga nhâm nhi ly cá phê để cho lòng mình thực sự bình yên trước khi lấy taxi đến nhà Hồng.

Chiếc xe taxi mang Bôn đến đúng địa chỉ nhà Hồng. Đứng thẩn thờ đưa mắt nhìn căn nhà tí chút, trước khi giơ tay bấm chuông. Người ra mở cổng không ai khác chính là Hồng. Thấy Bôn, Hồng thoáng vẻ ngỡ ngàng nhưng trở lại bình thản ngay, nhìn thẳng vào Bôn với vẻ không thân thiện và cũng chẳng thèm mở rộng cánh cổng. Giương mắt không vui nhìn Bôn, Hồng gắt:

-Anh lên đây khi nào? Tại sao không cho em biết trước? Thật là vớ vẩn, chỉ tạo ra những phiền phức cho người ta mà thôi.

Bôn ngẩn ngơ với thái độ và câu nói gắt gỏng không một tí thân thiện, mừng rỡ đón chờ mình. Chưa kịp trả lời thì Hồng nói tiếp:

-Anh về đi, còn sớm vẫn đủ thời gian cho anh mua vé xe trở lại Saigon! Nhà em hôm nay có khách không thể tiếp đón anh được!

Dù đã cảm nhận được một sự thật quá rõ ràng, nhưng Bôn tự nén nóng giận, nói với Hồng:

-Tại sao anh phải về? Anh lên đây mong muốn được gặp em. Tình cảm chúng mình viết cho nhau trong suốt năm qua, nó vô nghĩa với em sao?

Hồng mở to mắt, nhìn thẳng vào mặt Bôn. Cô ta lùi lại đằng sau tí chút như muốn đóng cánh cổng. Hồng đưa bàn tay vẫy về phía trước, tỏ ý xua đuổi Bôn, với câu nói chậm rãi, rất rõ ràng:

-Anh đừng mơ mộng nữa cho mệt. Anh tưởng tôi yêu thương anh để thả mồi bắt bóng hay sao? Anh nhìn lại mình đi, có cái gì để bảo đảm cho tương lai của tôi không. Những lá thư tôi viết cho anh cũng chỉ là một lối chơi văn nghệ tìm vui mà thôi! Nó chẳng có nghĩa gì của yêu thương, hứa hẹn đâu!

Đến lúc này thì Bôn thực sự đã cảm nhận được mình quá dại khờ, đã đần ngốc bước vào vòng xoáy trò chơi của Hồng. Bực bội vì bị làm trò cười, Bôn chỉ thẳng tay vào mặt Hồng:

-Đồ giả dối! Tao đã ngu ngơ để lầm lẫn về con người nhiều mặt như mày….

Chẳng để cho Bôn nói hết lời, Hồng lùi vào phía trong sân nhà, đóng sập cánh cổng, trề môi cười khinh, hướng ra phía Bôn, nói to:

-Thôi, ông nhà quê! Hãy nhìn lại bóng dáng, tài năng và cả vị trí của mình xem, rồi hãy nghĩ đến tình yêu với tôi ! Một tên nhà nghèo, không học thức, không nghề nghiệp… Hãy trở về mà suy nghĩ, nhìn lại mình đi.

Nói xong, Hồng bước nhanh vào nhà, coi như không có chuyện gì xảy ra. Bôn đưa mắt tức giận nhìn cánh cổng đã đóng kín rồi cúi đầu, im lặng bước xa chiếc cổng căn nhà như một kẻ không hồn!

Tôi ngồi im nghe Bôn kể, dù có chút ngạc nhiên và trách móc sự quá tàn nhẫn của Hồng. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ hơn, nhìn vào hoàn cảnh của Bôn, tôi cũng chẳng tìm thấy một cái gì khả dĩ có thể chinh phục được một cô gái biết suy nghĩ khôn ngoan, có trình độ muốn tìm một cuộc sống an định tương lai như Hồng. Cái đáng trách và tàn nhẫn trong cuộc tình yêu trên giấy này, đó là Hồng là đã đóng vai trò “tàn độc“ quá hay, trong một vở kịch quá dài.

Im lặng, đưa mắt nhìn nét khổ sở hiện rõ trên khuôn mặt khá điển trai của Bôn với cảm giác thương hại. Tôi nghĩ lúc này tất cả những lời khuyên nhủ hay chia buồn của tôi dành cho Bôn đều là vô nghĩa lý và dư thừa. Có lẽ vài ba ngày nữa, nếu được tôi sẽ đọc cho Bôn nghe một vài câu thơ làm vội vừa hiện ra trong cảm xúc của tôi:

Này người em dại khờ mà ta thương mến,

Có gì đâu khi chỉ một vài lần thất bại!

Trong tình yêu hay trong cả cuộc đời

Hãy đứng dậy, vui cười và ngạo nghễ.

Đời đã dậy cho em một lần khôn lớn.

Hãy cười vang mà chấp nhận, dù trong nước mắt!

Còn tình yêu cũng đã dậy cho em một phép đo lường

Xin đừng ngại ngần, đắn đo, lo lắng.

Hãy nhìn thẳng vào nó, tình yêu!

Không bằng cảm xúc con tim

Hãy lấy lý trí khôn ngoan của một người biết tính toán.

Hãy biết đo đếm tình yêu bằng đơn vị tiền tài và danh vọng.

Để không phải buồn, thất vọng vì si mê.

Hãy nhớ kỹ lời anh dặn,

Hỡi thằng em mới lớn ngây ngô.

Thời gian dành cho mơ mộng hão huyền

Chỉ là cánh chim bay ngoài cửa sổ

Đừng bao giờ tiếc nuối, khổ đau,

Bởi đó chỉ là một cuộc tình không thực tế.

Hãy đứng dậy, hỡi thằng em dại khờ!

Hãy mạnh bạo phá đi những mạch máu trói buộc con tim,

Chính là nó!

Đúng! Chính là nó.

Tác nhân của những nỗi buồn làm cho ta đau đớn không nguôi.

Hãy cười vang để cho em khôn lớn lần sau.

Từ đó tôi không còn bị phiền phức, mất thời gian để đọc những lá thư không gửi cho mình nhưng phải dành thời gian để suy tư, tìm ý tưởng đóng đúng vai trò của một người “viết thư mướn” nữa.

Bẵng đi một thời gian khá dài tôi không gặp hay nhìn thấy Bôn trong xóm, Bôn cũng không đến nhà giúp mẹ tôi trộn thức ăn gia súc nữa. Sau khi dò hỏi tôi mới biết Bôn đã đăng ký vào lính Hải quân sau khi thụ huấn xong khoá thủy thủ tại Nha Trang, Bôn được gửi đến phục vụ tại căn cứ hải quân ở Cà Mau.

Sau đó khoảng một năm, khi tôi chuẩn bị tốt nghiệp đại học, một hôm từ đại học về, chưa kịp dẫn xe vào nhà. Từ khu xóm bên cạnh những tiếng ồn ào pha lẫn tiếng than khóc của bà Sáu. Tôi vẫn bình thản mở cổng vào nhà vì nghĩ rằng đó chỉ  là một vụ đánh chửi nhau vẫn thường xảy ra trong xóm. Nhưng chưa kịp dựng chiếc xe, mẹ tôi hốt hoảng chạy ra cho tôi biết ông bà Sáu vừa nhận được điện tín đánh về từ Cà Mau cho biết Bôn đã tử trận.  Xác của Bôn đang được quàn trong nghĩa trang quân đội ở Gò Vấp.

Tin buồn đã làm tôi ngẩn ngơ, tôi lắc nhẹ đầu nhiều lần ra vẻ không tin đó là sự thật. Trong vẻ thẫn thờ nhìn bâng quơ, tôi nói nhỏ trong miệng:  “Không! không thể tin được đó là sự thật! Nó xảy ra quá nhanh! Bôn, chết thật rồi sao.” Hình bóng thằng Bôn trắng trẻo, hiền lành rất lễ độ, luôn luôn nhìn về tôi như một thần tượng, một khuôn mẫu của một người hoàn hảo. Nó chưa bao giờ nói một câu phản đối hay càu nhàu không vừa ý với tôi về bất cứ điều gì khi nói chuyện với tôi. Đổi lại tôi cũng luôn luôn xem nó như một đứa em cần nhường nhịn hay chỉ bảo. Kỷ niệm đau buồn cùng với những lá thư viết thuê của tôi trong cuộc tình giả dối của nó với Hồng lại hiển hiện trở lại trong trí nhớ tôi. Nhưng tất cả, bây giờ đã trở thành quá khứ rồi!

Tôi tự nhủ sẽ viết thư, báo tin buồn này cho Hồng. Một lá thư cuối cùng, tôi cũng sẽ dùng tài năng văn chương ngôn ngữ của mình một cách chính trực, không bằng vẻ hoa hoè văn chương nữa. Tôi sẽ viết, cố gắng làm sao cho Hồng dành tí chút thời gian lên Sài Gòn, tạt vào nghĩa trang thắp cho nó một nén hương. Nói với linh hồn nó vài lời an ủi như là một món quà cuối cùng dành cho một kẻ si tình đã vì cô ta mà thất vọng, chán chường rồi bước chân vào quân ngũ để rồi mãi mãi ra đi.

Riêng tôi, dù bận thế nào, tôi cũng sẽ dành thời gian đến với Bôn lần cuối ngày an táng nó tại nghĩa trang. Tôi sẽ đốt cho nó vài nén hương cùng với bản nhạc “Thuỷ thủ và Biển cả”  như một lời chúc cho một thằng em, trong một chuyến hải trình nào đó. Trong lúc lênh đênh sóng nước, biển khơi, nó sẽ tìm được một nàng tiên cá, chân thật, yêu thương nó thật tình, không lừa dối nó bằng những ngôn từ đẹp đẽ , lãng mạn nhưng hoàn toàn không có thật. Nó sẽ tìm được hạnh phúc thật sự đầy ắp yêu đương giữa sóng biển mù khơi, như câu truyện thần thoại lãng mạn đã làm mê mẩn thế gian của Hans C. Andersen.

Với biển cả anh là thuỷ thủ…ù…u…

Với lòng nàng anh là hoàng tử… ù…u…

……………………

Kìa ngư nhân in hình trên sóng

Bao nàng công chúa dưới thâm cung

………………………..

Và chuyện thần tiên bao thế hệ

Cho anh bao giây phút say sưa

Cho anh thêu muôn giấc mơ hoa

Cho anh luôn yêu đời hải hồ. (Nhạc Y Vân)

(Thuỵ Sĩ, Zuerich)

(còn tiếp)

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Thầy Fuyuo Ohta
Thầy Fuyuo Ohta, Ðại học Kagoshima, Nhật Bản, là vị thầy học cuối cùng trong hơn hai mươi năm đi học của đời tôi. Vị thầy khác tổ quốc, khác…
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: