50 năm, chiến sĩ VNCH nằm xuống: Các anh vẫn chưa yên nghỉ

Một góc Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa. (Hình: Đ.T/SGN)
Share:

Chưa một thống kê nào cho biết, hiện còn có bao nhiêu người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mất tích, còn bao nhiêu mộ phần của các chiến sĩ đang nằm rải rác đó đây tại khắp các địa phương trong cả nước không hoặc chưa có người thân kiếm tìm đưa về hương khói.

Nhiều người trong số đó, đã từng được an táng nghiêm kính, tập trung tại các Nghĩa Trang Quân Đội; số ít khác do hy sinh vào những ngày, những giây phút cuối của cuộc chiến nên bị vùi lấp đâu đó giữa rừng sâu, khe suối nào chẳng ai hay; cũng không ít người bị lao tù đã mất thân chỉ được đồng đội chôn vùi vội vã nay không tìm ra dấu vết bởi thời gian và những đổi thay của rừng núi năm xưa.

Giữa hoang tàn phế tích

Ngay tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, nơi có hàng vạn ngôi mộ của những người lính thuộc đủ mọi quân binh chủng đã hy sinh, và được chôn cất theo lễ nghi quân cách, có bia chí rõ ràng, và một vài năm qua cũng được nhiều thân nhân tới lui thăm viếng sửa sang… nhưng vẫn còn không ít mộ phần trở nên tiêu điều, không bóng dáng người thân, quanh năm chẳng một chút khói hương.

Thời gian gần đây tại Bình Định, Tuy Hòa, Ban Mê Thuột… người ta phát hiện thêm những Nghĩa trang Quân đội khác trong tình trạng hoang phế hơn nữa. Có khu đất cây rừng lên xanh chen phủ đầy các ngôi mộ, hất tung xô đổ các mộ chí ngày nào. Một vài khu mộ khác bị người dân lấn chiếm, biến thành khu dân cư, thành những rẫy khoai mì, thậm chí có nơi họ còn dùng nuôi thả gia súc, làm ô uế nơi yên nghỉ của những người đã chết cho quê hương.

Một góc Nghĩa Trang Quân Đội Ban Mê Thuột. (Hình cắt từ video clip do anh Hoàng Cao Sang cung cấp)

Đầu năm 2025, một số thanh niên địa phương phát tâm dọn dẹp khu nghĩa trang quân đội ở Bình Định, đắp dựng lại các mộ bia bị đổ, vỡ, sơn tô lại tên tuổi người nằm dưới. Hàng trăm ngôi mộ đã rõ tuổi tên, và nhờ vậy thân nhân nhiều tử sĩ từ xa tìm đến nhận được cha, anh, xin đón về quê an nghỉ.

Tại Ban Mê Thuột, anh Quân, một thanh niên giáo dân thuộc nhà thờ chính tòa, đã bỏ ra rất nhiều thời gian để một mình rong ruổi lùng sục khắp khu mộ, mà theo Quân có tới trên 2,000 mộ chiến sĩ VNCH hầu hết thuộc sư đoàn 23 đã được chôn cất tại đây trước “Tháng Ba gãy súng” (*), nay cũng tiêu điều rệu rã giữa các khu vườn trồng mì, chẳng mấy bóng người thân lui tới.]

Anh Quân, người tự nguyện trong coi Nghĩa Trang Quân Đội Ban Mê Thuột, ghi chép lại danh sách tử sĩ, chờ gia đình đến nhận. (Hình cắt từ video clip do anh Hoàng Cao Sang cung cấp)

Quân bỏ thời gian ghi chép đầy đủ các thông tin tên tuổi, số quân, ngày hy sinh… được trên 1,000 ngôi mộ, rồi đưa lên các phương tiện thông tin còn rất hạn chế của mình để mong tìm được người thân cho tử sĩ. Rất tiếc vì nhiều lý do, cho đến nay chỉ mới có hàng chục trường hợp phản hồi.

Ở Tuy Hòa, cũng có một khu Nghĩa Trang Quân đội VNCH, với hàng ngàn ngôi mộ được xác nhận là chiến sĩ thuộc Sư đoàn 22 bộ binh. Nay có nhiều dân cư từ khắp nơi về cất nhà cửa sống chung. Cũng chỉ rất gần đây, qua anh Bình và gia đình anh chị Phượng & Lý cùng vài người thiện tâm khác đã tìm đến, ghi nhận và phát thông tin lên mạng xã hội.

Rải rác đó đây, người dân cũng thông báo kiếm tìm thân nhân cho những người lính đã hy sinh, được phát hiện nằm vùi trên vùng biển Thuận An (Huế) và đã được ngư dân trong vùng đưa về an táng tập trung. Đáng trân trọng nhất là có người dân ở vùng núi phía Bắc, đã thông tin về những ngôi mộ nằm gần khe suối cạnh nương rẫy của mình, đây hẳn là những sĩ quan bị đưa đi tù đày, đã được họ mang lên khu gò cao xây mộ đá, lập miếu thờ, hương khói quanh năm.

Những cuộc trở về đẫm nước mắt

Thông qua các thông tin được người dân chuyển tải, hàng chục trường hợp thân nhân đã tìm lại được cha anh của mình sau 50 năm hoặc hơn thế nữa. Cuộc trùng phùng nào cũng như một phép màu và đầy nước mắt.

Năm 1971, một người vợ trẻ nhận xác chồng sau một trận chiến ở Tuy Hòa, chị chỉ kịp nhận xác, chôn vội chồng chung với đồng đội đã hy sinh, rồi tất bật về quê gồng gánh nuôi bốn đứa con thơ dại. Chị cũng chưa một lần nào được dẫn các con thăm mộ người bố từng biền biệt đồn trú xa nhà thì nước mất nhà tan… Cả nhà lại khốn khổ trong chế độ mới, thiếu ăn rách mặc, nên dù  đành đoạn lãng quên, thậm chí chỉ còn mơ hồ nhớ chút địa danh.

Người con gái út ngày đó mới chưa đầy 2 tuổi, nay đã ngoài 50 mới tình cờ thấy tin về bố. Cái tên Lò Văn Pẩu của ông – người dân tộc Mường, quê ở Mường Khương (Lai Châu), vừa lớn lên đã theo gia đình di cư vào Nam rồi lớn lên đăng lính – không thể nhầm lẫn, tên người lập mộ cũng vậy. Thế là chỉ một sớm một chiều, cả gia đình gồm bốn gái, một trai, cùng năm người dâu, rể của ông đã từ Kontum chạy xuống Tuy Hòa nhận mộ phần bố, rước chút di cốt còn lại sau 54 năm mang về nhà thờ cúng. Khai quật ngôi mộ xưa, vẫn còn lẫn trong di cốt cây bút máy, chiếc đồng hồ đeo tay, và những đồng bạc kẽm hoa mai…

Gia đình cũng mới tìm thấy Hạ Sĩ Đặng Văn Hợp, lính sư đoàn 23, số quân 63/000896 – tử trận ngày 12/9/1970 – Từ nhiều năm qua, do nhiều lý do nên dù rất khao khát kiếm tìm, cũng không có điều kiện, lại cũng chỉ mơ hồ biết ông được đơn vị an táng ở đâu đó tại Ban Mê Thuột, nên đành giữ mãi trong lòng. Tình cờ, người con trai cả, nay cũng quá 60, coi được một clip nhỏ về khu nghĩa trang quân đội ở Ban Mê Thuột, lướt qua trúng tấm bia tên cha mình, trùng cả số quân. Cả gia đình ngay trong đêm đã lên xe từ Bến Tre ra Ban Mê Thuột, mang cả giấy báo tử theo để đối chiếu với thẻ bài may ra còn đó, hầu an tâm rước cha về quê cũ.

Không may mắn như mấy trường hợp khác, thông tin về tử sĩ Trần Dương hay Trần Đường vừa ít ỏi, vừa không trùng khớp với những gì thân nhân, là người chị gái nay đã gần 80 tuổi cung cấp. Anh Tuấn, cư ngụ tại một thôn làng cách Ban Mê Thuột khá xa, hơn 30 năm trước đã phát hiện ra ông và một đồng ngũ khác nằm cạnh nhau bên bờ con suối vắng vẻ. Hoàn cảnh lúc ấy, anh chỉ âm thầm đưa hai người lên một khu đất cao gần đó. Anh kể lại, một trong hai người có thẻ bài mang tên Trần Dương hay Trần Đường (vì thẻ bài không khắc dấu), người còn lại mặc áo giáp nhưng không có thẻ bài nên chẳng rõ họ tên. Anh chôn cất cả hai. Nay hai ngôi mộ này nằm phía sau một nhà dân. Người chủ đất cũng đã tôn cao nền mộ, xây gạch chung quanh và cất một ngôi miếu nhỏ thảng hoặc hương khói.

Đầu Tháng Ba, 2025, anh Tuấn lên mạng thông báo về tử sĩ Trần Dương và những gì anh còn nhớ mang máng theo thẻ bài anh chôn theo mấy chục năm trước, là hai số đầu của số quân và nhóm máu. Gia đình ông Trần Đường từ Phước Long nghi đây là của em cháu, bạn bè mình đã hy sinh trong trận Phước Long vào Tháng Mười năm 1974, nên đã lên tiếng, xin tới Ban Mê Thuột nhận về. Những người lập, giữ mộ băn khoăn vì đôi điều không hợp lý lắm, như nếu bị thương hay hy sinh tại Phước Long sao lại trôi dạt ngược lên Ban Mê Thuột, và nhóm máu O không đúng với nhóm A trong thẻ bài anh Tuấn nhớ?

Họ lo ngại, nếu để gia đình ông Đường này nhận mà không thực là thân nhân, sau này sẽ khó để ông được về với người thân. Nhưng rồi, theo nguyện vọng tha thiết gia đình nhận là ruột thịt của ông Đường cũng đã lên nhận em, chú, cậu, đồng thời cũng xin rước cả người đồng đội của ông về một nơi thờ phụng chung, bởi “họ đã là huynh đệ chi binh, rồi đã nằm bên cạnh nhau suốt hơn 50 năm qua, nay đâu thể cách rời!” Giả sử như có nhầm lẫn cũng không sao. Sau này có ai khác đến nhận mà hoàn toàn trùng khớp các thông tin, gia đình cũng vui vẻ.

Ngày khai quật mộ phần, đúng như những gì anh Tuấn cho biết, dù thân thể cả hai đã mục nát hết cả, nhưng một người còn có chiếc thẻ bài làm chứng, một người còn có chiếc áo giáp và đôi giầy trận. Chiếc thẻ bài mang số quân 74/419061 được xác nhận đúng là của ông Trần Đường, nguyên là sĩ quan Đồng Đế khóa 5/73B. Nay cả hai ông đã được mang về đặt tại ngôi chùa ở Phước Long do cháu ruột của ông Trần Đường trụ trì.

Bia mộ tử sĩ Trịnh Văn Phước tại Nghĩa Trang Quân Đội Ban Mê Thuột. (Hình cắt từ video clip do anh Hoàng Cao Sang cung cấp)

Người chết vẫn khắc khoải đợi chờ

Tuy vậy, vẫn còn hàng ngàn ngôi mộ chiến sĩ VNCH đây đó, tập trung trong các nghĩa trang quân đội tại một số địa phương đang bị hoang phế không có người chăm sóc, không có thân nhân lui tới, hoặc chôn vùi rải rác trong vùng sâu, vùng xa hoàn toàn không mộ chí. Thân nhân họ vì hoàn cảnh nào đó. Ví như sau cuộc chiến đã ly tán, đã vất vả mưu sinh, con cháu nghèo khó sống lất lây qua ngày đoạn tháng chẳng có điều kiện tìm kiếm, hốt cốt đưa về. Cũng có thể do không biết cha, ông, anh em mình giờ nằm đâu, vì bia mộ tan hoang, gãy đổ. Tất cả đều day dứt trong lòng.

Cũng mới gần đây, có người ở vùng núi rừng Yên Bái, Cao Bằng lên tiếng về mấy ngôi mộ có tên tuổi và địa chỉ của người mất từ mấy mươi năm trước. Tôi nhớ, trong số có hai người từng cư ngụ tại Cư xá Bắc Hải (quận 10, Saigon), chắc đây là những sĩ quan cấp tá, bị ở tù và khi chết được anh em đồng đội khắc vội lên bia. Có người được tin đã tìm đến đúng địa chỉ để mong thông báo cho gia đình ra Bắc nhận về. Nhưng căn nhà cũ nay đã thay chủ mấy lần, chẳng biết đâu nữa mà báo. Các ông vẫn cứ sương gió cô đơn giữa rừng thiêng núi độc, ngóng vọng phương Nam. Có người may mắn hơn, được dân làng quy tập, xây mộ, lập bia đá tử tế, nhưng chắc hồn thiêng cũng bảng lảng theo khói hương mà quấn quyện bên những người không cùng huyết thống, ngày đêm khắc khoải đợi chờ một ngày con cháu tới rước anh linh về an nghỉ; hoặc họ đã biến thành thần thiêng gia hộ cho những gia đình đã đón họ như người thân, gắn bó với họ suốt bao năm tháng đã qua, bất chấp những dị nghị hay gây khó bởi chính quyền sở tại.

Tôi nhớ, cách đây đã hơn 10 năm, tại một xã thuộc huyện Hướng Hóa (Quảng Trị), gia đình ông Hồ Văn Tới, người dân tộc Cơtu (hầu hết sau này đều mang họ Hồ), kể cho tôi nghe chuyện gia đình ông luôn có một vị thần gia hộ, mỗi khi có người đau ốm, cứ cầu vái với ông thần đó là khỏe. Vị thần của gia đình ông Tới, mãi sau nhiều lần đi lại thân thiết rồi, tôi mới biết đó là một người lính chết chỉ còn bộ xương dưới chân cầu Đắk Rông, được vợ chồng ông nhìn thấy, đem cả về nhà lấy chiếc áo lành nhất của mình quấn vội mang chôn. Người lính ấy không có lai lịch, hoặc có mà người đồng bào dân tộc này không hề biết nên thất lạc theo dòng sống vào mùa nước lũ.

Một số trang trong cuốn sổ ghi chép tên tử sĩ VNCH của anh Quân. (Hình: Hoàng Cao Sang)

Đã cuốn trôi bao ước mơ chưa kịp thành hình

Trong số bạn bè cùng trang lứa với tôi, không ít anh em đã sớm rời sách vở, xa thân nhân ruột thịt bước vào đời lính. Hầu hết chưa một ai biết thế nào là tình yêu, chưa một ai được ôm hay hôn người bạn gái cùng lớp cùng trường từng thương thầm nhớ trộm.

Sau Tháng Tư, 1975 tất cả đã bình an trở về, trừ một vài người bị thương tật, hay bị bắt làm tù binh tại chiến trường Quảng Trị năm 1072 như Hà Hồng Kiêm, một thiếu úy Thủy Quân Lục Chiến mãi năm năm sau mới được tự do. Bạn bè gặp lại nhau, không một ai hối tiếc quãng đời cầm súng chiến đấu, nhưng làm sao tránh khỏi đôi chút ngậm ngùi khi nhìn lại bao ước mơ dang dở chưa kịp thành hình.

Có nhà thơ nào đó đã lên tiếng, đại ý là dù bên nào thắng, thua thì người dân đều chịu thiệt thòi, đau khổ. Người thiệt thòi, đau khổ nhất chắc chắn là người Mẹ. Chính tôi đã chứng kiến dì ruột mình khóc ngất rồi như điên loạn trước thi hài của con trai bà, cùng tuổi với tôi, tử trận vào đầu Tháng Hai năm1975, xác được mang về an táng tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa. Rồi bà lại ngất đi lần nữa, khi chỉ mấy tháng sau, gia đình phải khai quật em lên, vì biết trước nơi đây sẽ không còn là nơi em an nghỉ. Xác em qua mấy lớp quan tài, vẫn còn tươi rói, máu còn đọng trong poncho, được đưa về nghĩa trang giáo xứ của khu định cư tỵ nạn Cộng Sản mới thành lập năm 1970-1971 cách Long Khánh khoảng hơn 40 km.

May là dì chú tôi vẫn còn tìm được xác con, được thấy con, được chôn cất trang trọng, và cuối cùng được chôn cất con lần nữa kịp tránh những phỉ nhổ, xâm hại của “bên thắng cuộc.”

Dì tôi và nhiều người Mẹ khác ở phía bên này đã phải ngày đêm ngậm ngùi cho tới khi lìa thế mà vẫn không yên vì lạc mất xác con. Vì tôi biết rất rõ, bao nhiêu người Mẹ miền Bắc cho tới hôm nay vẫn chưa tìm được con mình bị chôn vùi nơi đâu trong các nơi gọi là nghĩa trang liệt sĩ.

Chẳng nói đâu xa, tôi biết chỉ riêng tại làng quê tôi ở Vĩnh Bảo (Hải Phòng) đã có ba bà mẹ suốt hơn mấy chục năm qua lang thang tới độ tiều tụy bởi rong ruổi khắp các tỉnh, thành phía Nam đi tìm mộ con mình đã “sinh Bắc tử Nam.” Họ cơm nắm cơm muối dắt lưng, lội khắp các bơi, dò tìm từng ngôi mộ, vẫn mịt mù không thấy. Nhà ngoại cảm, ông đồng bà bóng nào họ cũng tìm tới, tốn tiền tốn của mà xác con vẫn hoài vô vọng.

Một số trang trong cuốn sổ ghi chép tên tử sĩ VNCH của anh Quân. (Hình: Hoàng Cao Sang)
Một số trang trong cuốn sổ ghi chép tên tử sĩ VNCH của anh Quân. (Hình: Hoàng Cao Sang)

Làm sao mà tìm thấy, nếu như những chàng trai trẻ ra đi ngày ấy đã bị tan xương nát thịt bởi đạn bom? Bạn tôi, anh Trần Trọng Khuê, giáo sư các trường đại học ở Saigon kể lại: anh và tất cả các sinh viên năm cuối đại học Bách Khoa , đại học Tổng Hợp Hà Nội vừa qua tuổi 20 (lúc đó học sinh miền Bắc theo hệ phổ thông 10 năm) bị đưa vào chiến trường Quảng Trị năm 1972, lúc hòa đàm Paris đang bế tắc, Hà Nội muốn có cuộc chiến thắng tại đây để làm giá cho thương thảo. Mỗi ngày một đại đội lính mới được chuyển vào, dọc đường anh em mới được hướng dẫn qua loa cách sử dụng vũ khí, hoàn toàn ngơ ngác trước kinh nghiệm chiến trường của quân đội VNCH, nên vào trận là bị “nướng sạch.”

May mắn chỉ dăm ba người sống sót, bị thương được đưa ngược trở lại. Anh là người trong số cực kỳ may mắn đó. Vì còn được đưa sang Nga, sau đó sang Pháp học hành, lấy được hai văn bằng tiến sĩ khoa học (như tiến sĩ quốc gia), một bằng toán ở Lomonosov, một bằng kinh tế ở Paris, được giữ lại làm giảng sư ở Pháp, rồi trở về Việt Nam sống với mẹ già. Anh vẫn khóc ròng mỗi khi nhắc đến Quảng Trị, hoặc có tin gia đình ai đó đã tìm thấy hài cốt bạn bè anh dưới nề đất lạnh cổ thành.

Năm 2014, tôi cũng đã đến hai nghĩa trang liệt sĩ nổi tiếng Thành cổ Quảng Trị và Trường Sơn. Mỗi nghĩa trang có tới hàng vạn người lính Bắc Việt được chôn cất, có bia chí tử tế. Hầu hết là những người trạc cỡ tuổi chúng tôi, hoặc lớn hơn vài ba tuổi, xuất thân từ khắp các tỉnh phía Bắc. Tại đây tôi cũng gặp nhiều người lặn lội đi tìm kiếm người thân đang nằm yên đâu đó. Họ không chỉ tìm kiếm, săm soi trong khu vực được sắp xếp theo địa phương, mà chỗ nào cũng tìm tới với hàng nắm nhang đỏ rực trên tay, vừa cúi xuống bước đi vừa rầm rì lời khấn vái. Tôi hỏi họ sao không nhờ quản trang chỉ dẫn. Họ trả lời: “Cứ tự đi tìm còn may ra, chứ nhờ vả quản trang thì… chẳng biết thế nào.”

(*) Chữ của nhà văn Cao Xuân Huy.

***

Đọc thêm: 50 năm, chiến sĩ VNCH nằm xuống: Còn đó những nỗi đau

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo