Đời người ai cũng có những kỷ niệm luôn ở tận sâu trong lòng dĩ vãng, khó chôn vùi, nghệ sĩ Nam Lộc cũng vậy, có những chuyện xảy ra cách đây gần nửa thế kỷ, mà khi kể lại, ông nhớ từng chi tiết, và bảo: “Cứ như ngày hôm qua.”
Hơn 60 năm làm việc trong lĩnh vực âm nhạc và hoạt động xã hội của nhạc sĩ Nam Lộc, khó có giấy bút nào lột tả hết được trên vài trang giấy, nhưng những dấu ấn đặc biệt về một con người đa tài này, đáng phải ghi nhận.
Thuở thiếu thời
Nhạc sĩ Nam Lộc (tên đầy đủ: Nguyễn Nam Lộc) người gốc Bắc Ninh sinh năm 1944, cha ông, một thiếu úy trong quân đội Pháp được thuyên chuyển về Hà Nội ngay sau khi ông chào đời, cho đến năm ông lên 10, gia đình di cư vào Nam.
Có lẽ uống nước làng quê quan họ Bắc Ninh từ tấm bé, Nam Lộc mang trong mình “máu văn nghệ” và biểu lộ khá sớm biệt tài tổ chức. 18 tuổi, cậu học trò lớp đệ Nhị cấp của trường Chu Văn An đã đứng ra tổ chức Đại Nhạc Hội Liên Trường, có Trưng Vương, Gia Long, Nguyễn Trãi, Petrus Ký, Lê Văn Duyệt, Marie Curie… Nhưng tính cách thích hoạt động xã hội lấn lướt máu nghệ sĩ, nên từ thời trung học, Nam Lộc tổ chức nhiều lần gây quỹ qua các sinh hoạt văn nghệ, chủ yếu là âm nhạc, để giúp những nạn nhân chiến tranh, cô nhi quả phụ, nạn nhân hoả hoạn, nạn nhân bão lụt.
Nam Lộc kể, đến khi lên đại học, ông thường qua chơi bên Trung Tâm Sinh Hoạt Học Đường, gặp ông Đỗ Ngọc Yến (nguyên chủ nhiệm báo Người Việt) và ông Nguyễn Trọng Nho.
“Hồi còn là sinh viên, ông Nguyễn Trọng Nho hay qua trường Chu Văn An để kêu tụi tôi bỏ lớp học đi biểu tình, biểu tình chống TT Diệm, chống đàn áp Phật Giáo…” Nam Lộc nhớ lại. “Vì thế, tụi tôi hay gọi đùa ông Yến là đàn anh của ‘trung tâm sinh hoạt học đường’, còn ‘trung tâm sinh hoạt ngoài đường’ phải là ông Nho”.
Gọi là biểu tình nhưng Nam Lộc thừa nhận lúc đó ông chỉ đi chơi cho vui thôi, chứ chưa có lý tưởng đấu tranh gì như lớp đàn anh. Nhưng thời ấy, ông Đỗ Ngọc Yến đánh đúng tâm lý của các thanh niên trai tráng, kêu gọi sinh viên tham gia những sinh hoạt ở quán Văn của giới văn nghệ sĩ như Trịnh Công Sơn, Khánh Ly, Miên Đức Thắng,… của phong trào du ca và tình ca.
Sau khi quán Văn bị nhóm sinh viên thân Cộng tấn công, ông Ngô Vương Toại bị bắn, Nam Lộc, khi đó mới ngoài 20 tuổi, lập quán Gió trên đường Võ Tánh, Sài Gòn, với mục đích là dời quán Văn về, làm nơi cho Khánh Ly và Trịnh Công Sơn phổ biến tác phẩm và giọng ca của mình. Chỉ trong vòng một năm, ông đã đủ tiền để xây dựng quán Hầm Gió, một tụ điểm sinh hoạt nghệ thuật rất thanh tao và lịch sự.
Nghệ thuật vị nhân sinh
Quán Gió hay Hầm Gió cũng đều là nơi mà các nhạc sĩ Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Từ Công Phụng, Miên Đức Thắng, Nguyễn Đức Quang, Đức Huy, Đoàn Thanh Tuyền, các nhà văn như Tạ Tỵ, Thế Uyên, Tú Kếu, Nguyễn Thụy Long, Duyên Anh, Huyền Anh… thường xuyên lui tới sinh hoạt. Ngoài ra còn có những chương trình nhạc trẻ cuối tuần.
Là người thích và có khiếu về tổ chức các tổ chức phi lợi nhuận (non-profit), nhưng khi thấy giới trẻ khao khát nghe nhạc, mà đất nước còn trong chiến tranh, không thể nào tổ chức các đại nhạc hội được, ông bèn nghĩ cách tổ chức ca nhạc có thu phí, rồi đóng góp tất cả tiền bạc để giúp cho cô nhi quả phụ.
Làm như thế, anh em nghệ sĩ có môi trường hoạt động, ban nhạc có chỗ chơi, mà người trẻ có nơi để đến thưởng thức công khai chứ không phải nghe lén, lại có tiền làm công việc lợi ích cho cộng đồng xã hội.
Nam Lộc đem ý nghĩ này, đến gặp các sĩ quan tâm lý chiến như Phạm Huấn, Hà Huyền Chi, Du Tử Lê tức đại úy Nguyễn Cự Phách… đề nghị hỗ trợ. Lúc trình bày ý tưởng, Nam Lộc khẳng định: “Quí vị bên khối Chiến Tranh Chính Trị quản trị hết tất cả mọi tiền bạc, quí vị lo an ninh, sân khấu, chúng tôi đem ban nhạc, ca sĩ tới trình diễn hoàn toàn tự nguyện, không nhận thù lao.”
Được sự đồng ý, ông đứng ra tổ chức buổi Đại Hội Nhạc Trẻ đầu tiên vào năm 1971 tại sân vận động Hoa Lư, hát từ sáng đến tối, thu hút hàng chục ngàn người đến xem, với sự chủ tọa của đệ nhất phu nhân, bà Nguyễn Văn Thiệu. Toàn bộ tiền thu ngày hôm đó, được xung vào quỹ cứu trợ cô nhi, quả phụ của các chiến sĩ VNCH đã hy sinh trong trận Hạ Lào.
Liên tục các năm sau đó, từ 1972 đến 1975, năm nào các buổi Đại Hội Nhạc Trẻ đều thu về hàng triệu bạc, và hoàn toàn cho mục đích từ thiện. “Hồi đó, có nhiều lời đồn đại, rằng nhóm nhạc trẻ này chỉ tụ tập hút sách, thật ra đâu phải vậy. Giới trẻ Việt Nam không như Hippy Mỹ,” Nam Lộc kể. “Vấn đề là chính tụi tôi không muốn giới trẻ Việt bị ngoại lai, hát nhạc ngoại quốc, đi theo ngoại quốc, nên anh em chúng tôi mới phát động ra phong trào Việt hóa nhạc trẻ.”
Nam Lộc nhắc lại, có một lần được nghe ca sĩ Jo Marcel hát bài Mộng Dưới Hoa của Phạm Đình Chương, rồi bản Chiều của Dương Thiệu Tước, phổ thơ Hồ Dzếnh hay quá, nhất là lối hòa âm rất lạ và trẻ trung của nhạc sĩ Đức Huy, ông kêu lên “Hết sẩy, mấy tay này có tài thật!”
Sau đó, ông và bạn là nhạc sĩ Trường Kỳ (mất năm 2008) cùng một số bạn hữu thấy mình có trách nhiệm kéo mọi người về với văn hoá người Việt, nên dịch những bài hát ngoại quốc sang lời Việt, với mục đích thỏa mãn nhu cầu yêu thích nghe nhạc ngoại quốc của giới trẻ, nhưng phải mang nghệ thuật đi xa hơn, với lời bài hát, ý nghĩ và tâm tình là người Việt Nam.
Ba ca khúc đã gắn bó với tên tuổi nhạc sĩ Nam Lộc ngay trong những ngày đầu là “Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu” (Tell Laura I Love Her), “Mây Lang Thang” (The Cowboy’s Work Is Never Done) và “Chỉ Còn Là Giấc Mơ Qua” (Yellow Bird), và hàng chục nhạc phẩm Việt hóa nổi tiếng khác, trong đó có cả bài “Mùa Thu Lá Bay”, ca khúc gắn liền với tên tuổi của nữ ca sĩ Kim Anh, hoặc bản “Dòng Đời” (dịch từ nhạc phẩm gốc “My Way”), mà nam ca sĩ Elvis Phương vẫn nghĩ rằng đó chính là ca khúc mà nhạc sĩ Nam Lộc viết tặng cho mình.
Nam Lộc không làm văn nghệ vì mục đích thương mại, mà làm nghệ thuật vì bản tính con người, ông còn làm cả tờ báo chuyên về nhạc trẻ. Nam Lộc nói: “Nhạc trẻ là một trong những hoạt động tôi rất lấy làm hãnh diện. Chính nhờ nhạc trẻ này mà nó đi theo tôi sang tới Hoa Kỳ, giúp tôi trở thành một ‘signature’ của người tổ chức đại hội âm nhạc ngoài trời. Một phần cũng nhờ tôi có mối quan hệ với nhiều nghệ sĩ. Điển hình như các đại nhạc hội gây quỹ xây dựng Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ tại Westminster, hoặc các buổi đại nhạc hội “Cám Ơn Anh”, để gây quỹ cứu trợ Thương Phế Binh VNCH…
Đêm 25 Tháng Tư, 1975, nhận ra binh biến, Nam Lộc một mình lang thang trong phi trường Tân Sơn Nhất thì bất chợt gặp nhạc sĩ Đức Huy. Với sự giúp đỡ của một bạn thân người Mỹ, Đức Huy có mặt trong phi trường từ mấy ngày trước, làm công việc đọc danh sách những người được lên phi cơ. Hôm ấy, do đã mệt mỏi, Đức Huy nhờ Nam Lộc nhận công việc này thay mình, rồi chia tay lên đường sang Mỹ trước.
Ba hôm sau, ông cũng rời Sài Gòn trên một chuyến bay. Tưởng sẽ định cư tại Montreal, Canada, như lời hứa của một gia đình người bạn quen nằm trong danh sách những người do anh đọc tên lúc ở phi trường Tân Sơn Nhất, khi đến đảo Guam, lời hứa kia trở thành “gió thoảng mây bay”, nhưng với ông, lời thất hứa đó lại hóa hay, vì nhờ thế ông mới có cơ hội phát triển được mọi khả năng của mình tại Mỹ.
Ám ảnh chiếc xe bus màu vàng
Ngày 2 Tháng Năm, 1975, sau một thời gian ngắn ở đảo Guam, khi vừa bước vào tuổi 30, Nam Lộc có mặt tại trại tị nạn Pendleton, thành phố San Clemente, Nam California. Với thân xác khỏe mạnh, nhưng tâm trạng thì bị tê liệt, vì không có gia đình hay người thân bên cạnh, không biết số phận mình sẽ ra sao, ông từng tức giận. “Thật sự lúc đó, tôi giận nhiều hơn là nghĩ tới tương lai, giận vì người Mỹ phản bội, giận vì phải xa rời quê hương, đất nước, giận vì gia đình mình bị bỏ rơi,” nghệ sĩ Nam Lộc hồi tưởng những ngày đầu tiên của cuộc đời mình cách nay gần 50 năm.
Từ đảo Guam, chiếc phi cơ đáp xuống phi trường El Toro, trong khu trại lính gần thành phố Irvine, Nam Lộc bước ra với tâm hồn trống rỗng, lạnh tanh của một “kẻ bị bỏ rơi” như lời ông nói. Bất chợt nhìn thấy những người lính mặc quân phục lái chiếc xe bus màu vàng, ông rợn người, nhớ tới xe buýt màu vàng ở Sài Gòn, tâm trí hoang mang, nhưng ông tự mình định thần khi nhớ lại rằng mình đang được đưa tới Los Angeles, nơi mà trong đầu ông được định sẵn, là chốn phồn hoa, nhà cửa chọc trời và Hollywood hoa lệ.
Nhưng ở phi trường EL Toro, không khí im vắng quá, rồi chiếc xe đưa ông ra Freeway 5 hướng tới San Diego, hai bên đường chỉ toàn… cam là cam, những trái cam vàng ửng, nằm trên cây, hay rụng tràn lan dưới đất (à thì ra người ta gọi là Orange County!).
Chiếc bus cũng màu vàng chạy được một lúc, vẫn không thấy nhà cửa, chỉ toàn những đoàn xe ngược xuôi lao vút trên xa lộ, ông lo lắng: “Mình đang được đưa đi đâu đây?”. Tới lúc xe rẽ vào San Clemente city, nơi có ngôi nhà của cựu tổng thống Nixon, ông mới chợt tỉnh, ồ thì ra mình đang ở Mỹ. Nhưng ông lại nhanh chóng rơi vào tâm trạng hoang mang, khi được chở tới thung lũng – nơi không hề có cỏ hoa thơ mộng, mà toàn là những chiếc lều màu xanh. Trại tập trung? Mình phải ở đây bao lâu? Mắt ông mờ đi…
Trời Calif. Tháng Năm vẫn còn lạnh lắm, nhất là khi mới từ xứ nóng qua, những người tị nạn, như Nam Lộc, chưa chịu được thay đổi đột ngột, được phát mỗi người một cái áo khoác (jacket) nhà binh, già trẻ, lớn bé, trai gái, cao thấp gì cũng chỉ có một size. Nhận áo xong, mọi người được đưa về lều.
Nam Lộc nhớ lại: “Trong lều có sắp hàng dãy ghế bố, khoảng 20 cái cho mỗi lều, và chia đều hai bên. Buồn, lo, nhớ nhà, nhớ cha mẹ anh em, tôi không tài nào ngủ được. Cứ đêm đến là tôi đi lang thang, uống cà phê quanh quẩn khu mobile homes của Red Cross và các cơ quan điều hành trại gần đó, nơi có chỗ gửi thơ, ngồi viết thơ, gửi về nhà. Ban ngày ấm hơn, không có việc gì làm, tôi lăn ra ngủ. Đến giờ trưa người ta kêu đi ăn, người Mỹ phục vụ, toàn đồ Mỹ, nhớ và thèm thức ăn Việt mẹ nấu, chịu không nổi!”