Các phi công máy bay chiến đấu da đen đầu tiên trong lịch sử không quân Mỹ không chỉ xuất sắc trong chiến đấu, họ cũng đã phá vỡ các rào cản chủng tộc. Đây là câu chuyện của họ.
Lập chiến công ngay trong tim của kẻ thù
Ngày 24 Tháng Ba, 1945, phi đội máy bay chiến đấu 332nd Fighter Group của phi đoàn U.S. Fifteenth Air Force xuất phát từ căn cứ ở Ý để hộ tống đội máy bay ném bom B-17 hạng nặng trong chuyến bay khứ hồi dài 1,600 dặm đến thủ đô Berlin của Đức.
Đây là nhiệm vụ hộ tống máy bay ném bom dài nhất và nguy hiểm nhất trong Đại chiến Thế giới lần thứ II. Mục tiêu: Nhà máy lắp ráp xe tăng của Daimler-Benz ở Berlin, được bảo vệ kỹ bởi các máy bay chiến đấu như Lightning Messerschmitt 262 (ME262), loại máy bay chiến đấu phản lực đầu tiên thế giới do những phi công giỏi nhất của Luftwaffe (không quân Đức quốc xã) điều khiển.
Khoảng hai chục máy bay ME 262 bay lên tấn công đội hình máy bay ném bom của Mỹ khi nó tiếp cận mục tiêu. Nhưng các phi công Tuskegee, lái những chiếc Mustang P-51 đuôi đỏ đặc thù, đã chiến đấu anh dũng chống lại các máy bay phản lực của Đức. Trong khi ME 262 bay nhanh hơn nhiều so với các máy bay điều khiển bằng cánh quạt, Mustang lại cơ động hơn. Ngày hôm đó, các phi công Tuskegee đã bắn hạ ba máy bay kẻ thù trên bầu trời Berlin, giúp đội máy bay ném bom tấn công thành công nhà máy sản xuất xe tăng và giúp dọn đường cho đồng minh tiến quân vào Đức.
Máy bay ném bom tấn công tầm xa vào các vùng lãnh thổ châu Âu do Đức quốc xã kiểm soát là một trong những công việc nguy hiểm nhất trong Đại chiến Thế giới lần thứ II. Luftwaffe xem việc bắn hạ các máy bay ném bom khổng lồ như Pháo đài bay B-17 Flying Fortress và B-24 Liberator là nhiệm vụ hàng đầu. Trong nhiều cuộc tấn công đầu tiên vào lãnh thổ Đức, hơn một nửa phi hành đoàn Mỹ không bao giờ về nhà. Sự bảo vệ duy nhất mà các máy bay ném bom dễ bị tổn thương bay trên lãnh thổ của kẻ thù là những chiến đấu cơ hộ tống đi kèm.
Và những người hộ tống tốt nhất chính là “Airmen Tuskegee”, các phi công da đen đầu tiên trong lịch sử quân sự Hoa Kỳ bay trên những chiếc máy bay có đuôi màu đỏ. Aimen Tuskegee đã bay hơn 15,000 phi vụ cá nhân và khoảng 1,500 nhiệm vụ chiến đấu trong Đại chiến Thế giới lần thứ II. Trong gần 200 nhiệm vụ hộ tống, họ chỉ để mất 27 máy bay ném bom, ít hơn đáng kể so với trung bình 46 của các nhiệm vụ hộ tống không phân biệt trắng đen.
Đập vỡ bức tường chủng tộc
Những phi công này không chỉ chiến đấu chống lại chủ nghĩa phát xít ở nước ngoài, họ cũng phải chiến đấu với nạn phân biệt chủng tộc ngay ở quê nhà. Và họ đã thắng. Vào cuối thập niên 1930, quân đội Đức gần như có mặt trên khắp châu Âu, và dù Hoa Kỳ đã tuyên bố chiến tranh với Đức, hàng ngàn người Mỹ vẫn đăng ký để chiến đấu ở nước ngoài với tư cách phi công.
Thời điểm đó, các hình thức phân biệt chủng tộc cũng lan rộng trong quân đội Hoa Kỳ. Các lực lượng vũ trang bị chia tách, với quân nhân da đen thường phải làm những công việc lao động phổ thông nặng nhọc. Không nơi nào sự bất bình đẳng lộ rõ hơn trong Army Air Corps (Quân đoàn Không quân). Không có sự chia tách ở đây mà là loại hẳn các quân nhân da đen khỏi các nhiệm vụ của người da trắng.
Để biện minh, các lãnh đạo quân sự đã viện dẫn một báo cáo sặc mùi phân biệt chủng tộc của trường quân sự Army War College được công bố sau Đại chiến Thế giới lần thứ I. Báo cáo tuyên bố “Người da đen là ‘sub-species’ (loài hạ đẳng) thiếu trí thông minh và lòng can đảm để chiến đấu, đặc biệt là trong các nhiệm vụ đầy thách thức như phi công”!
Trong nhiều thập niên, các nhà lãnh đạo dân quyền đã chống lại định kiến như thế với nhiều cuộc vận động hành lang để có sự đối xử bình đẳng trong quân đội. Áp lực tăng lên khi Hoa Kỳ bắt đầu chuẩn bị cho chiến tranh. Năm 1938, dự đoán phải có thêm nhiều phi công, Quân đoàn Không quân bắt đầu thành lập các trung tâm huấn luyện bay tại các trường cao đẳng trên toàn quốc (trừ các trường học da đen).
Tuy nhiên, năm 1940, trong khi vận động cho nhiệm kỳ thứ ba của mình, Tổng thống Franklin Delano Roosevelt hứa sẽ bắt đầu chương trình đào tạo đầu tiên cho các phi công quân sự da đen. Sau khi giành chiến thắng, Roosevelt ra lệnh cho Bộ Chiến tranh (War Department) thành lập phi đội bay da đen đầu tiên 99th Pursuit Squadron (sau đổi tên thành phi đội 99th Fighter Squadron).
Trường đào tạo phi công chiến đấu da đen đầu tiên
Tháng Bảy, 1941, các thành viên đầu tiên của phi đội bắt đầu được đào tạo tại Viện Tuskegee (Tuskegee Institute) ở Tuskegee thuộc tiểu bang Alabama. Sau cuộc tấn công của quân phiệt Nhật vào Trân Châu Cảng sáu tháng sau đó dẫn đến việc Hoa Kỳ trực tiếp tham chiến, phi đội bay da đen đầu tiên được lệnh xuất kích trong “cuộc thử nghiệm Tuskegee” (Tuskegee Experiment).
Một tháng đầu năm 1941, Đệ nhất phu nhân Eleanor Roosevelt khi đến thăm Viện Tuskegee đã vào phía sau một máy bay hai chỗ ngồi, bỏ qua lời khuyên an toàn, và bay với Charles Alfred Anderson, một phi công da đen và huấn luyện viên trưởng tại Viện. Sau đó, Quân đoàn Không quân miễn cưỡng đồng ý huấn luyện không chiến cho các phi công da đen trong cuộc thử thí nghiệm Tuskegee, nhưng khăng khăng rằng phi đội da đen vẫn phải tách biệt.
Quân đoàn cũng thiết kế một chương trình chuyên biệt để kiểm tra xem các phi công da đen có khả năng bay máy bay giống phi công trắng không. Nhiều lãnh đạo quân sự mong đợi cuộc thử nghiệm sẽ thất bại, nhưng các phi công da đen tiên phong đã quyết tâm chứng minh họ sai. Các học viên hàng không đầu tiên tại Tuskegee gồm những thanh niên được giáo dục đại học đến từ khắp đất nước.
Trong 12 học viên khoá đầu tiên, nhiều người đã từng bay trước đó như Đại uý Benjamin Davis, Jr., người sau này nắm quyền chỉ huy phi đội 99th Fighter Squadron và trở thành tướng đen đầu tiên trong Không quân Mỹ. Davis là con trai của một trong những sĩ quan da đen đầu tiên trong quân đội Mỹ và là người Mỹ da đen thứ tư tốt nghiệp Học viện quân sự West Point (West Point Military Academy), dù khá vất vả vì bị các học viên da trắng tẩy chay và không được quan tâm.
“Sống như một tù nhân bị giam cầm trong bốn năm không phá hủy tính cách của tôi và cũng không khiến tôi có cái nhìn thù hận – Davis Davis viết trong cuốn tự truyện – Cha tôi nói có nhiều người ủng hộ của tôi, nhưng tiếc thay, không ai trong số họ ở West Point!”.
Khi Đại chiến Thế giới lần thứ II kết thúc, có 992 phi công da đen tốt nghiệp trường huấn luyện Tuskegee. 14,000 nhân viên hỗ trợ khác cũng tốt nghiệp các vị trí hoa tiêu, cơ khí, điều hành vô tuyến, giảng viên, y tế và những thành viên quan trọng khác của các phi đội.
Khẳng định bản thân
Trường đặt ở trung tâm miền Nam nặng nề phân chủng và các học viên chịu đựng sự phân biệt đối xử trong suốt chương trình huấn luyện nghiêm ngặt. Họ bị cấm đến một số khu vực trong căn cứ và ở các thị trấn xung quanh. Benjamin Davis, Jr. luôn nhắc nhở phi đội hãy phản ứng lại sự bất công bằng cách tuân thủ kỷ luật và chứng minh khả năng của mình trong buồng lái.
Đến Tháng Tư năm 1943, Quân đoàn Không quân đã gửi phi đội 99th Fighter Squadron vào cuộc chiến. Khi Davis dẫn đầu các phi công da đen đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ tham chiến, ông biết Airmen Tuskegee đã mang thêm một gánh nặng.
“Màn trình diễn mẫu mực trong chiến đấu của chúng tôi sẽ là câu trả lời cho định kiến phân biệt chủng tộc có trong đầu nhiều người Mỹ. Chúng tôi biết muốn làm được như thế, chúng tôi phải có kỷ luật – Milton Holmes, cựu phi công của Airmen Tuskegee tâm sự với một tờ báo địa phương vào năm 2017 – Chúng tôi phải chứng minh mình xuất sắc khi họ mong đợi chúng tôi thất bại”.
Trong lần đầu tiên đến Bắc Phi, 99th Fighter Squadron đồn trú tại Quần đảo Pantelleria và Sicily của nước Ý, nơi họ bảo vệ không phận cho các tàu đồng minh đi qua Địa Trung Hải và tấn công các mục tiêu của kẻ thù trên mặt đất. Nhưng sự phân biệt đối xử vẫn tiếp tục đi theo họ. Ở Bắc Phi, một nhóm sĩ quan cao cấp tìm cách đẩy phi đội đen khỏi nhiệm vụ chiến đấu. Nhưng Davis với quân hàm trung tá lúc đó quyết tâm bảo vệ phi đội trước Bộ Chiến tranh.
Ông khẳng định không tìm thấy lỗi nào trong hoạt động tác chiến hiệu suất cao của đơn vị. Phi đội được ở lại cuộc chiến, và được bổ sung thêm ba phi đội Tuskegee khác để thành lập 332nd Fighter Group, một phi đội mới cũng toàn đen trong U.S. Fifteenth Air Force. Nó cũng được giao một nhiệm vụ chính mới: Hộ tống máy bay ném bom hạng nặng bay trên lãnh thổ kẻ thù, một nhiệm vụ sẽ làm cho các phi công Tuskegee Airmen nổi tiếng.
Tung hoành với P-51 Mustang
Vào Tháng Bảy 1944, Tuskegee Airmen được trao những chiếc máy bay mới: P-51 Mustang. Các phần đuôi của Mustang được sơn màu đỏ thẫm đặc biệt và có cái tên mới: Máy bay đuôi đỏ. Mustang P-51 có thể bay nhanh hơn và xa hơn bất kỳ máy bay nào trước đây của phi đội. Ban đầu nó được thiết kế như máy bay ném bom bổ nhào cho Không quân Hoàng gia Anh. Khi được nâng cấp cho Quân đoàn Không quân Mỹ với các động cơ mới của hãng Rolls-Royce Merlin, nó đã trở thành một trong những máy bay chiến đấu đáng tự hào nhất trong Đại chiến Thế giới lần thứ II.
P-51 hoàn hảo để bảo vệ máy bay ném bom trong các nhiệm vụ tầm xa sâu trong lãnh thổ địch. Phạm vi hoạt động của nó lên tới 1,000 dặm và có thể vượt qua các máy bay chiến đấu Luftwaffe tốt nhất. Là chỉ huy của 332nd Fighter Group, Đại tá Davis ra lệnh cho các phi công chỉ bám sát những máy bay ném bom đang bảo vệ, thay vì đuổi theo máy bay địch. Những chiếc đuôi đỏ không có cơ hội bắn hạ máy bay của kẻ thù nhưng trọng tâm chính là bảo vệ các máy bay ném bom của đồng minh đã được phi đội làm rất tốt.
Những phi hành đoàn máy bay ném bom cũng thường yêu cầu cụ thể các phi công Tuskegee hộ tống, và gọi họ là “thiên thần đuôi đỏ”. Luftwaffe của Đức cũng công nhận kỹ năng của Airmen Tuskegee và gọi đối thủ là “Schwarze Vogelmenschen (Birdmen Black Birdmen). Nhắm mục tiêu các nhà máy lọc dầu, nhà máy và sân bay của kẻ thù, các máy bay chiến đấu của 332nd Fighter Group đã bay khắp miền nam và Đông Âu trong những tháng cuối cùng của cuộc chiến chống Đức Quốc xã. Cuối cùng, họ đã bay đến Berlin trong nhiệm vụ hộ tống lâu nhất của cuộc chiến. Vào ngày 7 Tháng Năm, 1945, hơn một tháng sau cuộc đột kích ở Berlin, người Đức đã đầu hàng phe đồng minh.
Công trạng không thể nào quên
Đến cuối Đại chiến Thế giới lần thứ II, Airmen Tuskegee đã đạt được một hồ sơ xuất sắc và hầu như không còn ai nghi ngờ về khả năng và lòng can đảm của các phi công da đen trong chiến đấu. Đơn vị đã giành được hơn 850 huy chương, gồm 95 Distinguished Flying Cross, 8 Purple Heart, một Silver Star và 744 Air Medal.
Đơn vị cũng phải trả giá bằng 66 phi công thiệt mạng trong chiến đấu và 32 người bị bắt làm tù binh. Với những thành tích vẻ vang như thế, các phi công Tuskegee lẽ ra phải được chào đón tại quê nhà như những anh hùng. Nhưng thay vào đó họ vẫn gặp định kiến chủng tộc, thậm chí trước khi họ trở lại Mỹ.
Cuộc chiến ở châu Âu kết thúc, nhưng cuộc thập tự chinh cho sự bình đẳng chủng tộc ở Mỹ không kết thúc theo. Các phi công Tuskegee giúp tạo sự chuyển biến. Họ là một ví dụ không thể phủ nhận về “tinh thần đen” và đã truyền cảm hứng cho Tổng thống Harry S. Truman ký một sắc lệnh hành pháp vào năm 1948 cấm phân biệt chủng tộc trong quân đội.
Với sự giúp đỡ của Đại tá Davis, Không quân Hoa Kỳ (U.S. Air Force) mới thành lập là lực lượng đầu tiên có thành phần người da đen. Hơn nửa thế kỷ sau chiến tranh, Airmen Tuskegee trở thành chủ đề của hai bộ phim truyện và một triển lãm thường trực ở Viện bảo tàng Smithsonian để chính thức vinh danh công trạng của họ.
Vào năm 2007, khoảng 300 người trong các phi công đen đầu tiên (nhiều người là nhà hoạt động, giáo sư, bác sĩ, chính trị gia và anh hùng chiến tranh ở Hàn Quốc và Việt Nam) đi bộ đến Quốc hội Hoa Kỳ để nhận Huy chương Vàng Quốc hội (Congressional Gold Medal). Vài năm sau, các phi công còn sống được mời đến Washington, lần này để tham dự lễ nhậm chức của Barack Obama, tổng thống da đen đầu tiên của nước Mỹ.
Quyết tâm và lòng can đảm của Airmen Tuskegee đã giúp thay đổi đất nước mà họ chiến đấu bảo vệ. Kể từ năm 2020 đã có gần 50,000 phi công và nhân viên da đen phục vụ trong U.S. Air Force, chiếm khoảng 15 % số phi công của Không lực Hoa Kỳ – Popular Mechanics cho biết.