Ngày 25 Tháng Hai 2022, tuyệt phẩm kinh điển điện ảnh The Godfather tái ngộ khán giả tại các cụm rạp Dolby Cinema và AMC, đánh dấu 50 năm ngày tác phẩm của đạo diễn Francis Ford Coppola ra mắt và từng làm chấn động màn bạc đại vĩ tuyến. Một chương trình “50 năm The Godfather” cũng vừa được tổ chức ở Los Angeles với sự tham dự của “bố già” Francis Ford Coppola 82 tuổi…
“BỐ GIÀ” MARIO PUZO
Nói đến phim The Godfather không thể không nhắc Mario Puzo. Sinh ngày 15 Tháng Mười 1920 tại Hell’s Kitchen (khu định cư đông đúc của người Ý tại Manhattan phía Tây New York), Mario Puzo là một trong bảy người con của một gia đình Ý nhập cư. Năm Puzo 12 tuổi, bố ông đã rời bỏ gia đình. Sau khi phục vụ trong quân đội, Puzo làm nhiều nghề kiếm sống. Trước khi trở thành một tiểu thuyết gia lừng lẫy, Mario Puzo là một kẻ khố rách áo ôm nghèo kiết xác. Trong một bài viết, tờ Rolling Stone thuật: Long Island. 1965. Tác giả sách và tay cờ bạc Mario Puzo đang nợ $20,000; mượn từ người anh, vài người bà con, người đóng sách và bọn cho vay.
Tiểu thuyết đầu tiên của Mario Puzo là The Dark Arena (1955), giúp ông kiếm được $3,500. 10 năm sau, ông cho ra mắt cuốn thứ hai, The Fortunate Pilgrim, nhuận bút được trả: $3,000. Trước khi ngồi xuống máy chữ gõ quyển thứ ba, Mario Puzo đã 45 tuổi. Một hôm, trong bữa ăn trưa với một người bạn, Puzo kể vài mẩu chuyện vui về mafia và đưa cho anh ta xem bản phác thảo (The Godfather) dày 10 trang. Puzo được đưa đến giới thiệu với nhà xuất bản G.P. Putnam’s Sons.
Một giờ sau khi nghe Puzo kể chuyện mafia, ban biên tập G.P. Putnam’s Sons bật đèn xanh và ứng trước $5,000. Dùng khoản tiền nhỏ nhoi này, Mario Puzo đưa gia đình về Ý thăm quê hương (vợ ông chưa gặp bố mẹ bà suốt 20 năm). Trên đường về Ý, máu mê cờ bạc lại trỗi dậy và ông nướng sạch khoản còn lại trong $5,000 cho các sòng bạc châu Âu. Trở lại New York, còn tệ hơn lúc trước khi đi, “nhà văn của chúng ta” tiếp tục bị đòi nợ. Tiền trả góp thì quá hạn, thẻ tín dụng thì “overdue”. Tương lai mịt mù…
Chẳng việc quái gì phải lo – Mario Puzo vẫn lạc quan; cùng lắm thì bán nhà để khỏi đi tù. Ông gõ cửa một tờ báo, xin viết bài cộng tác. Rồi ông gọi điện đến nhà xuất bản, hỏi dò thế cuốn The Godfather sao rồi. Đầu dây bên kia dừng một giây và cô thư ký trả lời, thật đáng tiếc, chúng tôi không thể in quyển này được. Tuy nhiên, cuối cùng, không hiểu nội bộ bàn bạc thế nào, nhà xuất bản G.P. Putnam’s Sons quyết định phát hành The Godfather. Đó là năm 1969. Ngay lập tức, The Godfather gây chấn động nước Mỹ. Nó nằm 67 tuần trên danh sách best-seller của New York Times; hạng nhất ở Anh, Pháp, Đức… và được dịch sang 20 thứ tiếng. Trong hai năm đầu tiên, The Godfather bán được hơn 9 triệu bản. Tiền tác quyền, tiền kịch tác gia và với tỉ lệ phần trăm doanh thu từ phim The Godfather, Mario Puzo trở thành triệu phú.
Đọc The Godfather, người ta có cảm giác Puzo phải lăn lộn trầy vi tróc vảy trong thế giới ngầm và quen biết nhiều mafiaso cũng như kết thân với giang hồ gộc. Tuy nhiên, tác phẩm The Godfather là công trình được khai sinh sau ba năm Puzo lục lạo và đào xới tư liệu. Năm 1984, Puzo tung ra một quyển mafia nữa – The Sicilian – cũng được chuyển thể thành phim nhưng thất bại. Năm 1992, Puzo cho ra mắt The Fourth K (tác phẩm kinh dị nói về tương lai); và năm 1996, ông tung ra The Last Don. Tác phẩm này cũng trở thành tiểu thuyết bán chạy, đứng suốt hai tháng trong danh sách best-seller New York Times và được chuyển thể thành phim truyền hình nhiều tập vào năm 1997, với sự tham gia của Danny Aiello, Kirstie Alley và Joe Montegna…
Mario Puzo là bậc thầy kể chuyện. Ông là người đầu tiên phơi bày rõ nét về tội ác và sự tàn bạo trong thế giới ngầm mafia. Ông đưa người đọc vào một xã hội bị tiêm nhiễm bởi bạo lực và các cuộc chiến băng đảng giành giật lợi lộc và quyền lực. Puzo vạch ra một thế giới mà súng ống được xem là tiếng nói của tòa án và giết chóc theo lối “trải thảm” là cung cách hành xử của “lương tri mafia”. Trước và sau Puzo, chưa có nhà văn nào thành công bằng ông ở thể loại tội phạm mafia…
“BỐ GIÀ” FRANCIS FORD COPPOLA
Vào thời điểm nhà sản xuất Al Ruddy của hãng Paramount “truy lùng” được Francis Ford Coppola tại nhà của đạo diễn George Lucas, nhiều đạo diễn đã từ chối chuyển thể The Godfather của Mario Puzo lên màn bạc, từ Arthur Penn (Bonnie and Clyde), Peter Yates (Bullit), Richard Brooks (In Cold Blood) đến Even Franklin J. Schaffner (Patton). Ngay cả sếp hãng Paramount, Robert Evans, trước đó cũng được thuyết phục rằng làm phim mafia có mà bán nhà vì sẽ lỗ sặc gạch. Tuy nhiên Robert Evans cuối cùng đồng ý, với điều kiện phải giao một đạo diễn gốc Ý, vì ông “muốn ngửi mùi spaghetti trên màn bạc”, hàm ý phim giang hồ Ý phải ra “chất Ý”. Francis Ford Coppola là người được chọn.
Với Francis Ford Coppola, không ai có thể đóng vai ông trùm hợp bằng Marlon Brando. Tuy nhiên, nghe nói đến tên Marlon Brando là dân làm phim nổi gai ốc. Tài tử lừng danh khoản “sát gái” này rất nổi tiếng với tật cà chớn. Paramount đồng ý với ba điều kiện: 1/ Brando phải “cọc” trước một số tiền, coi như “tiền uy tín”, phòng trường hợp xảy ra bất kỳ trì hoãn nào do đương sự gây ra; 2/ Brando được trả $50,000, cùng với chi phí liên quan tiến trình làm phim và tỉ lệ phần trăm doanh số phim thu được; 3/ Brando phải diễn thử (đây là điều mà Paramount bày ra để Brandon nổi điên tự ái không nhận vai).
Hôm đó, Francis Ford Coppola đến nhà Marlon Brando ở Malibu, ôm theo hộp prosciutto (một loại ham), pho mát, xì gà Ý để làm quà. Cùng đi với ông là nhiếp ảnh gia Nhật Hiro Narito. Dưới một ngọn đèn và qua cái ống kính 16mm, Francis và Hiro gần như nín thở quan sát suốt 20 phút khi Marlon Brando được hóa trang để biến từ một anh trung niên 47 tuổi thành ông trùm Don Corleone 70 tuổi. Hóa trang chưa đáng nói. Điều cần nói hơn là Marlon Brando đã hóa thân thành ông trùm máu lạnh một cách xuất thần khi diễn thử vài phân đoạn được chỉ định trong kịch bản. Như khán giả sau này khi xem phim, lúc xem đoạn diễn thử của Marlon Brando, dàn sếp lớn của Paramount cũng… nổi da gà rợn người vì thích.
Hầu như tất cả bài viết lâu nay về thành công tác phẩm điện ảnh The Godfather rất ít nhắc đến casting. Đây mới thật sự là chi tiết không thể bỏ qua. Sự có mặt những gương mặt thượng thặng, cùng Marlon Brando, đã tạo nên một tác phẩm điện ảnh đậm đặc chất nghệ thuật thứ bảy kinh điển, từ Al Pacino đến James Caan; từ Richard Castellano, Robert Duvall, Sterling Hayden, John Marley, Richard Conte đến Diane Keaton…
The Godfather được công chiếu lần đầu tại rạp Loew’s State ngày 14 Tháng Ba 1972, và được phát hành khắp nước Mỹ ngày 24 Tháng Ba 1972. Nó trở thành phim có doanh thu cao nhất năm 1972. Tại lễ Oscar lần thứ 45, The Godfather giành giải Phim hay nhất, Nam diễn viên chính xuất sắc nhất (Brando) và Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất (cho Puzo và Coppola) – chưa kể bảy đề cử Oscar khác… Năm 1990, phim The Godfather được chọn để lưu trữ vào Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ.
“BỐ GIÀ” NGỌC THỨ LANG
Có thể khẳng định chắc như đinh đóng cột rằng không ai qua nổi Ngọc Thứ Lang (bút danh của ông Nguyễn Ngọc Tú) với bản dịch The Godfather của Mario Puzo.
Chỉ riêng chữ “Bố Già” dùng để dịch “The Godfather” đã thấy Ngọc Thứ Lang xứng đáng là cao thủ. Trong bản dịch, Ngọc Thứ Lang còn “chế” ra nhiều từ mà sau này đã đi thẳng ra xã hội để trở thành câu nói cửa miệng dân chơi lẫn dân nhà lành. Chữ “The Don” (trong tên “Don Vito Corleone”) được dịch thành “Ông Trùm” nghe thật đã. Và cũng chữ đó, trong trường hợp dùng miêu tả các thành viên trong gia đình Don Vito Corleone nói chuyện với nhau thì nó lại được dịch là “Ông Già”.
Ai có thể dịch “The Turk” thành “thằng Đường Thổ” để nghe cho đúng chất giang hồ? Và, “Mama Corleone”, với người khác chắc chỉ dịch là “bà Corleone”, thì với Ngọc Thứ Lang, nó phải là “Bà Trùm”. Cách sử dụng đại từ xưng hô của Ngọc Thứ Lang rất tuyệt cú mèo. Bản tiếng Anh chỉ là “I” với “you” nhưng khi Ông Trùm nói với mấy ông già gốc Ý thì nó được dịch là “Tôi với bạn”. Dịch như vậy mới thể hiện thâm ý Ông Trùm: Muốn cho thấy mình gần gũi thân thiện nhưng đồng thời khiến người đối diện luôn có cảm sợ hãi mơ hồ trong khi cùng lúc cảm nhận được vẻ đáng tôn kính của Ông Trùm. Và khi Ông Trùm nói với đám đệ tử thì “I” với “you” được chuyển thành “Tao với mi”!
Một cách chính xác, Ngọc Thứ Lang không dịch mà là phóng tác nhưng bản phóng tác của ông không đi quá xa nguyên tác. Bằng cách sử dụng cách hành văn với ngôn ngữ đậm chất anh chị giang hồ phổ biến Sài Gòn thập niên 1970, Ngọc Thứ Lang đã Việt hóa siêu đẳng bản dịch The Godfather. Ông không bám từng chữ, từng câu mà đảo lộn, có khi cả đoạn, để diễn đạt theo tư duy độc giả Việt. So sánh bản dịch với nguyên tác, có thể thấy bản dịch đọc sướng hơn bản gốc của Mario Puzo. Sướng hơn bội lần! Như thể Ngọc Thứ Lang viết lại theo một phiên bản Việt hóa của riêng ông. Ngay từ đoạn đầu tiên của truyện, Ngọc Thứ Lang đã thi triển kỹ thuật như vậy:
Bản gốc thế này: “Amerigo Bonasera sat in New York Criminal Court Number 3 and waited for justice; vengeance on the men who had so cruelly hurt his daughter, who had tried to dishonor her”.
Ngọc Thứ Lang dịch như sau: “Amerigo Bonasera có việc ra Tòa. Tòa Đại-hình Nữu-Ước, Phòng 3 để nghe công lý phán xét, trừng trị hai thằng khốn can tội bạo hành, toan cưỡng dâm con gái lão”. Cụm từ “có việc ra Tòa” nghe rất sướng! Rồi “hai thằng khốn”! Quá tuyệt!
Trong suốt bản dịch, Ngọc Thứ Lang sử dụng một văn phong đặc chất… “Ngọc Thứ Lang”. “Chất” Ngọc Thứ Lang mạnh đến mức “bán cả mùi” của Mario Puzo!… “Kìa cha mẹ chúng đang tíu tít bao quanh hai cậu quý tử”; “Coi, con này còn đẹp quá chớ?”… Chữ “kìa” và chữ “coi” của Ngọc Thứ Lang tưởng đơn giản nhưng nặng tới hàng tạ! Rất “thuần Việt” lại ra được chất giang hồ. Dân giang hồ không thích nói nhiều. Lụi một cái rồi biến cho lẹ… Còn nữa, “Out fucking” được dịch thành “Đi ngủ với trai” (cách cô đào trả lời anh chồng) là một điển hình “rất Ngọc Thứ Lang”. Và đây: “Hận lắm nhưng lại đánh không nổi con điếm này chỉ vì nó đẹp quá, đẹp quá đi” (He hated the woman on the floor but her beauty was a magic shield).
Thử xem vài đoạn nữa để thấy rõ hơn cách “viết lại” tài tình của Ngọc Thứ Lang:
BẢN DỊCH: Sáng thứ Năm, không hiểu sao lão thức giấc sớm hơn thường lệ. Cả một căn phòng mênh mông như còn phảng phất hơi sương. In hình ở cuối giường một dáng dấp quen thuộc quá? Vội chống cùi chỏ ngồi lên chú mục nhìn. Thì ra một cái đầu ngựa! Còn ngái ngủ, tay lão quờ quạng bật đèn. Ôi chao ánh đèn nháng lên cho thấy rõ mồn một. Woltz chết lặng người, như vừa lãnh một cú búa bổ vào đúng giữa ngực, tim nhảy loạn xạ và cứ thế mà nôn oẹ. Coi, con Khartoum!…
BẢN GỐC: On this Thursday morning, for some reason, he awoke early. The light of dawn made his huge bedroom as misty as a foggy meadowland. Far down at the foot of his bed was a familiar shape and Woltz struggled up on his elbows to get a clearer look. It had the shape of a horse’s head. Still groggy, Woltz reached and flicked on the night table lamp. The shock of what he saw made him physically ill. It seemed as if a great sledgehammer had struck him on the chest, his heartbeat jumped erratically and he became nauseous. His vomit spluttered on the thick bear rug…
BẢN DỊCH: Giang sơn của lão mà chúng dám giở trò sao, dám ngồi lên đầu lão chắc? Quả thực óc tự tôn, tính tự cao tự đại đã hại Jack Woltz phen này! Chỉ cần xuống một búa cái rụp là có thế lực văng trời cũng phải mở mắt. Vito Corleone chơi cú này quá rõ rồi. Ra điều bảo thẳng vào mặt lão rằng… Mày cỡ lớn thật, mày thế lực thật, mày có chơi Tổng thống và bồ bịch ông Tổng FBI thì thằng lái buôn dầu ăn gốc Ý hạng bét này muốn lấy mạng lúc nào mày phải chết lúc ấy. Nếu tao muốn thì mày phải chết! Điệu này thì chết thực chớ còn mơ hồ gì? Mạng mình kể như nó nắm. Nhưng nó dám lấy mạng mình chỉ vì mình không cho thằng Johnny đóng phim thì trời đất ơi, láo quá! Ai cho phép nó chơi ngang vậy? Có thứ thế giới nào chấp nhận thứ quyền sinh sát láo đến vậy? Thôi đến thế là hết! Mình có tiền, mình có công ty, mình có toàn quyền ra lệnh. Vậy mà mình không được làm theo ý mình! Phải tuân lệnh của nó? Mười lần độc hơn cộng sản!
BẢN GỐC: Woltz was not a stupid man, he was merely a supremely egotistical one. He had mistaken the power he wielded in his world to be more potent than the power of Don Corleone. He had merely needed some proof that this was not true. He understood this message. That despite all his wealth, despite all his contacts with the President of the United States, despite all his claims of friendship with the director of the FBI, an obscure importer of Italian olive oil would have him killed. Would actually have him killed! Because he wouldn’t give Johnny Fontane a movie part he wanted. It was incredible. People didn’t have any right to act that way. There couldn’t be any kind of world if people acted that way. It was insane. It meant you couldn’t do what you wanted with your own money, with the companies you owned, the power you had to give orders. It was ten times worse than communism.
_______
Cơn sốt The Godfather xuất hiện cũng gần như cùng thời điểm mà thể loại “tiểu thuyết du đãng” bùng nổ ở Sài Gòn. Nguyễn Thụy Long tung ra Loan mắt nhung năm 1967; rồi Điệu ru nước mắt, Vết thù hằn trên lưng ngựa hoang của Duyên Anh… Tuy nhiên, tiểu thuyết du đãng Sài Gòn khác với The Godfather. “Tư duy du đãng” Sài Gòn khác với “tư duy du đãng New York”. Du đãng Sài Gòn được miêu tả là những thanh niên bất cần đời, hận thù chiến tranh và chỉ muốn thiêu đốt tương lai bằng cuộc sống bạt mạng vô định. Du đãng Sài Gòn cũng được miêu tả như những kẻ nghĩa hiệp, tôn trọng tình nghĩa anh em và căm ghét giả trá ngụy quân tử. Như lời đàn anh Trần Đại dằn mặt một tên du đãng quèn (chuyên bắt nạt con nít) tên Tony Hải: “Mày có học mà đi học những “trò chơi” hèn hạ của một thằng vô học. Mày làm cho đời càng ngày càng tởm du đãng. Chúng tao đang cố gắng bắt đời phải hiểu chúng tao để hết khinh bỉ chúng tao. Thì chính bọn mày lại nhổ những bãi đờm nhầy nhụa lên hai tiếng du đãng khiến đời càng tởm du đãng hơn. Tao ban cho mày một cái ân huệ cuối cùng là tha rạch mặt mày. Nhưng mày phải về với gia đình, học hành ngoan ngoãn. Tao nhìn khuôn mặt mọng sữa của mày, tao thương hại mày lắm. Mày chưa xứng đáng làm du đãng đâu, đừng đua đòi. Du đãng đâu có hành động như chúng mày. Du đãng như chúng mày là du đãng chó ghẻ. Làm du đãng như chúng mày, đến thuở nào mới rửa nhục được hở ranh con?” (Trích Điệu ru nước mắt)… |
___________