Nếu bạn ở một nơi có mùa Đông dài 5 tháng, và nhiệt độ ban ngày thấp hơn độ đóng băng của nước, bạn sẽ thích mùa Hè. Nhưng dù bạn có thích mùa Hè đến mấy thì cũng có những ngày nóng ngộp thở. Bạn làm gì để giải nhiệt? Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng đã mời gọi: “Mùa hè năm nay anh sẽ đưa em rời phố chợ đôi ngày.” Thật là chí lý.
Mùa hè ở trong thành phố rất nóng. Cái nóng hắt từ mặt đường tráng nhựa và từ xe cộ thải ra rất khó chịu. Một trong những cách giải nhiệt giản dị nhất là xa rời phố thị, đi về quê. Còn gì sung sướng hơn “Chín mươi ngày nhảy nhót ở đồng quê. Ôi tất cả mùa xuân trong mùa hạ.” (1). Người xưa từng nói về cái khoái lạc của mùa Hè là tắm ao sen, hạ thưởng lục hà trì. Chúng ta có thể thay thế ao sen bằng hồ, sông, hay biển. Không cần ngụp lặn nếu bạn sợ dính bùn, hay nước mặn gắt, chỉ cần bạn đi dọc theo bờ sông, bờ hồ, hưởng làn gió từ mặt nước thổi lên là thấy người khoan khoái hẳn lên.
Trên đường trail Delaware and Raritan không có hoa sen nhưng hoa súng rất nhiều. Không phải loại hoa súng water lily của Việt Nam. Đây là loại hoa nhỏ như một quả banh golf màu vàng, gọi là pond-lily hay cow lily. Loại hoa súng này tôi đã gặp trong một bức tranh của Hokusai. Có nghĩa là bên Nhật cũng có hoa này.
Ở đây, mùa nào có hoa nấy. Đầu tháng Sáu hoa hồng dại và honeysuckles nở trắng hai bên đường. Hương hoa ngan ngát quyện vào mỗi bước chân. Tháng Bảy và tháng Tám, hoa mallow, một loại hoa dâm bụt nở màu hồng thắm mỗi hoa to như cái đĩa bàn. Hoa có mùi thơm nhẹ, nhụy có mật ngọt nên thường quyến rũ kiến và ong. Hoa của thistle, còn gọi là hoa kế, vừa có nhan sắc lại vừa có hương thơm nhưng hiểm hóc đầy gai nhọn. Loại hoa hoang dại này lại được chọn tô điểm cho quốc huy của Tô Cách Lan.
Hoa dại, hình như, ít khi màu đỏ. Chỉ thỉnh thoảng tôi mới gặp sát mé nước một loại hoa, cánh hoa nhỏ hơn hoa huệ (loại huệ trắng tuberose bên mình hay chưng trên bàn thờ chứ không phải loại hoa loa kèn lily), giống như hình con hạc màu đỏ thắm gọi là hoa cardinal có nghĩa là hoa hồng y. Cùng màu đỏ tươi thắm có trái dâu tây strawberry và trái redberry. Chừng ấy màu đỏ đủ gợi nhớ câu thơ nổi tiếng trong bài Tình Sầu của Huyền Kiêu, “Hạ đỏ vẫn chàng đến hỏi. Em thơ, chị đẹp em đâu.”
Dọc dòng sông Millstone có rất nhiều ngỗng Canada và chim nước. Chim nước hay water fowl, water bird là loại nửa chim nửa vịt, có thể bay và đồng thời có thể bơi. Ở đây tôi thấy có merganser, Mallard duck, wood duck, và bufferhead. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy nó, con chim màu chocolate, nó đứng trên một tảng đá giữa khúc sông cạn, giang rộng đôi cánh như chờ gió lên cho đầy cánh để bay. Mãi về sau tôi mới biết tên chim là cormorant. Người Việt gọi là chim cốc. Rồi đột ngột nó cất cánh nhưng không bay cao, đuôi sà xuống chạm vào mặt nước, lệt phệt vài lần như thể bay không nổi để lại trên mặt sông mấy chỗ lõm gợn sóng. Về sau, tôi mới “ngộ” ra là nó đang rình để bắt cá chứ không phải tập bay.
Chim cốc không đẹp nếu dựa trên màu sắc. Những con chim được khen là đẹp đều có màu rực rỡ. Chim hồng y (cardinal) có màu đỏ tươi; blue jay màu xanh với nhiều sắc đậm nhạt có điểm trắng; hoàng yến, hoàng oanh (gold finch và oriole) có màu vàng tươi; két có đủ màu xanh đỏ; hoặc nếu không màu thì phải hoàn toàn trắng, trắng tươi, trắng xóa, như thiên nga.
Chim cốc có nhiều loại, đốm vàng ở cổ, hay đốm trắng ở ngực, tuy vậy đa số đều có bộ lông màu nâu sậm. Thiếu ánh sáng trông nó đen thui. Mỏ nó dài, nhọn, và khoằm. Đôi mắt xanh đục, và đằng sau gáy có chùm lông dựng đứng. Người ta nói mình chỉ nhìn thấy cái mình biết. Khi chưa biết nó là ai, tôi không hề có cái khái niệm gì về con chim cốc. Nhưng khi biết có con chim cốc trên cuộc đời này thì tôi gặp nó ở nhiều nơi. Đặc biệt, nó xuất hiện rất nhiều trong văn chương của châu Âu.
Thi sĩ John Milton đã so sánh chim cốc với quỷ Satan. Trong bộ trường thi Paradise Lost (Thiên Đường Đã Mất) quyển 4, Milton kể hai mạch truyện. Một mạch truyện nói về Adam và Eve. Mạch truyện còn lại nói về Satan (còn gọi là Lucifer). Satan vốn là thiên thần, sau khi quyết định nổi loạn chống lại Chúa, đã bay đến Eden (vườn địa đàng). Gã quỷ sứ đã đáp xuống cái cây to và cao nhất ở giữa vườn địa đàng. Đó là Cây Cuộc Đời (Tree of Life). Hắn ngồi trên cây giống như một con chim cốc, suy nghĩ tìm cách mang cái chết đến cho loài người (2).
Cốc nhỏ hơn hạc xám (great blue heron), thiên nga, hoặc ngỗng Canada, nhưng to hơn vịt Mallard đầu xanh. Lớp lông bên ngoài không thấm nước, nhưng lớp lông mềm bên trong có khi ngấm nước nên chim cốc thường giang cánh để hóng gió cho khô. Có lần nhìn hai con chim cốc há mỏ ra đối đáp với nhau, tôi thấy chúng trông có vẻ như đang cãi vã rất dữ dằn, nhưng biết đâu chừng đó là cái cách chúng nói những lời yêu thương với nhau.
Cốc lặn rất sâu và rất xa. Đứng rình chụp ảnh, tôi thấy nhiều lần chim cốc lặn rồi biến mất luôn. Có thể nó xuôi dòng đi rất xa và khi trồi lên lẩn vào gốc cây và rễ cây ở phía bên kia bờ sông tôi không tìm được. Chim cốc là loài chim săn cá thượng hạng. Cốc có thể nuốt con cá to gấp mấy lần vòng cổ của nó và có thể ăn cả chục con cá to trong chớp mắt. Chính vì khả năng này mà chim cốc bị Geoffrey Chaucer, thi sĩ nổi tiếng vào thế kỷ 14 với tác phẩm The Canterburry Tales, gán cho tật xấu là tham ăn. Năm trăm năm sau, Bram Stoker, trong tác phẩm Dracula đã cho nhân vật của ông tự nhận là “ta có khả năng ăn nhiều như loài chim cốc.”
Từ biểu tượng của sự tham ăn, chim cốc dần dần biến thành biểu tượng của gian thương dùng mánh khóe của con buôn để bóc lột người mua, những người cho vay ăn lời cắt cổ, thậm chí là biểu tượng của những nhà sư hổ mang gian hùng và tham lam.
Cốc là loại chim mùa Đông di cư. Ở New Jersey, khi trời trở lạnh, chúng biến mất. Vào tháng Năm trời ấm, lại thấy vài con lác đác bơi trên sông. Chừng tháng Bảy, tháng Tám, chúng đậu đầy ở những cái đập trên sông để bắt cá. Chim cốc có mặt trên nước Mỹ, Anh, Tô Cách Lan và ở châu Á như Trung Quốc và Nhật Bản.
Tôi đã nhìn thấy cốc bay thành đàn ở những cái cầu tàu chung quanh Fisherman Wharf, San Francisco. Mấy chục con bay hàng dọc, là là sát mặt nước, bay một đỗi thật xa, theo hướng gió đánh vòng tròn quay trở lại, như là một đoàn quân diễn hành cho du khách thưởng lãm, trông rất ngoạn mục. Tôi cũng gặp chim cốc ở Uji, ngoại thành của Kyoto, một trong 13 nơi của Nhật dùng chim cốc để săn bắt cá. Ở gần chân cầu Kisen bắc ngang con kênh dẫn nước từ sông Uji, có trại nuôi chim cốc để đi săn.
Trong quyển Jane Eyre (3), nhà văn Charlotte Brontë đã dùng chim cốc để báo điềm xấu trong tương lai. Jane vẽ ba bức tranh và đưa cho Rochester xem. Một trong ba bức tranh ấy vẽ cảnh đắm tàu Jane đã nhìn thấy cảnh này bằng dự cảm.
“Một luồng ánh sáng rọi lên cái cột buồm đã bị chìm trong nước. Bên trên cột buồm có con chim cốc đang đậu, màu nâu sậm và to lớn, đôi cánh của nó dính đầy bọt biển; mỏ của nó đang ngậm một chiếc lắc đeo tay bằng vàng có đính nhiều viên đá quý. Tôi đã dùng loại màu sáng đẹp nhất mà tôi có thể pha, và vẽ hình ảnh một cách lung linh nhất mà nét cọ của tôi có thể diễn đạt. Chìm bên dưới con chim cốc và cột buồm là xác của người chết đuối thấp thoáng ẩn hiện dưới làn nước biển xanh; đó là cánh tay có cái lắc vàng đã bị rơi ra.”
Con chim cốc là biểu tượng của một tương lai đen tối cho mối tình thầm lặng của Jane dành cho Rochester.
Theo huyền thoại, Vua Priam của thành Troy có người con trai tên là Aesacus. Vị hoàng từ trẻ tuổi đang hồi yêu say đắm thì người yêu chết. Tuyệt vọng, Aesacus đứng trên ghềnh đá gieo mình tự tử. Một trong những vị Titans thấy thương hại nên biến hoàng tử thành con chim cốc giữa lúc chàng đang lơ lửng trên không trung.
Năm 1900 ở Flannan Isles, một quần đảo Tô Cách Lan, đã xảy ra một vụ mất tích thật kỳ bí mà người ta không tìm ra nguyên nhân, cũng không thể giải thích được. Trên đảo Eilean Mòr (đảo chính của Flannan Isles), có một ngọn hải đăng và một ngôi nhà nguyện hư nát. Có ba nhân viên chăm sóc ngọn hải đăng này, James Ducat, Thomas Marshall, và Donald McArthur. Họ được tuyển chọn, đào tạo, rất thiện nghệ và hoàn toàn được tin cậy. Ngày 15 Tháng Mười Hai 1900, chiếc tàu Archtor từ Philadelphia đến Leith (Tô Cách Lan) thấy hải đăng không hoạt động, có lẽ vì thời tiết quá xấu.
Ngày 18 Tháng Mười Hai, tin hải đăng không hoạt động được báo cáo với Northen Lighthouse Board. Ngày 26 Tháng Mười Hai, bão dịu xuống, mới có người đến được ngọn hải đăng và khám phá ra cả ba nhân viên chăm sóc ngọn hải đăng đều mất tích như tan biến vào thinh không.
Tất cả đồ dùng trên đảo và đồ dùng của ba người đều còn nguyên vẹn, ngoại trừ bãi cập bến ở bờ Tây bị hư hại nặng vì cơn bão. Người ta đưa ra nhiều giả thuyết, những giả thuyết này được viết thành tiểu thuyết, làm thành phim. Một trong những giả thuyết này là ba nhân viên trông coi ngọn hải đăng đã biến thành ba con chim cốc bay ra khỏi đảo theo sự tưởng tượng của Wilfrid Wilson Gibson trong bài thơ Flannan Isles.
Chúng tôi thấy ba con chim đen, kỳ lạ và xấu xí
Quá to, theo ý tôi
nếu so với loại chim guillemot hay là chim shag.
Chúng ngồi thẳng thớm như ba chàng thủy thủ
Trên ghềnh đá ngấp nghé mực nước biển.
Nhưng khi chúng tôi đến gần, bọn họ phóng xuống và biến mất
Không một tiếng động, và cũng không một vệt sóng.
Gần đây nhất, cuốn phim Vanishing (Biến Mất) chiếu năm 2018 với Gerad Butler là diễn viên chính, đạo diễn Kristoffer Nyholm đã đưa ra một giả thuyết để giải thích vì sao ba nhân viên hải đăng đồng loạt biến mất.
Chim cốc xuất hiện trong văn học như một biểu tượng của ý nghĩ đen tối hay hành động xấu xa. Ngay cả Shakespeare cũng chê chim cốc không tiếc lời. Trong Richard II, act 2, scene 1, đại thi hào đã miêu tả chim cốc như sau:
Light vanity, insatiate cormorant,
Consuming means, soon preys upon itself.
Kiêu hãnh, chim cốc không bao giờ thỏa mãn
Phương tiện để tiêu thụ, sớm muộn gì cũng trở thành miếng mồi của chính nó.
Người Trung Hoa và Nhật Bản đều dùng chim cốc để săn bắt cá. Người Nhật Bản không nghĩ xấu về chim cốc. Họ nuôi và huấn luyện chim cốc để phục vụ loài người. Lợi dụng tài săn cá cũng như tật ăn tham của chim cốc, họ cột ngang cổ cốc một cái vòng, cột dây vào chân và thả cốc xuống nước đi săn. Sau đó họ nặn cổ chim cốc, bắt nhả ra những con cá đã săn được.
Chim cốc nhiều lần làm “người mẫu” cho danh họa Hokusai. Trên mạng, thấy lưu truyền một bức tranh chim cốc của Hokusai khá to và dữ dằn. Còn một bức khác tôi gặp trong quyển Hokusai Beyond the Great Views do Timothy Clark biên soạn. Bức tranh vẽ chim cốc đậu trên một cột gỗ dưới chân cột là hoa pond-lily màu vàng. Các nhà thơ Nhật nổi tiếng như Issa, Onitsura, và Basho cũng viết rất nhiều bài haiku về chim cốc.
Omoshirôte yagate kanashiki ubune kana
How exciting, the cormorant fishing boat!
But after a time,
I felt saddened (4)
Thật thú vị làm sao,
chiếc thuyền săn chim cốc!
Nhưng chỉ một lúc sau
Tôi cảm thấy nỗi sầu.
Blyth, nhà chuyên môn về Zen và thơ haiku đã suy nghĩ như thế này:
Basho không nói cho chúng ta biết điều gì đã làm ông buồn. Vì ông thương hại cho loài cá? Hay cho chim cốc bị bắt buộc phải nhả cá ra? Hay cho những người dân chài đã lợi dụng sự tham ăn của loài chim cốc? Hay cho lòng thèm khát vật chất của loài người không bao giờ nguôi ngoai? Câu trả lời đơn giản nhất và đúng nhất đó là chính Basho cũng không biết. Thật ra những câu thơ bên trên là phiên bản thứ nhì. Trước đó thay vào chữ buồn là chữ khóc. Những giọt nước mắt mà Basho đã từng kêu rằng. “Nước mắt, những giọt lệ trầm ngâm, tôi thật tình không hiểu ý nghĩa của chúng.”
Thú thật, những lời chê bai của các nhà văn châu Âu về chim cốc không thể bôi xóa được hình ảnh đẹp mà chim cốc đã mang đến cho tôi. Tôi xem một vài cuốn phim người ta dùng chim cốc đi săn trong đêm. Ông câu chèo phía sau, chim cốc ngồi trên thuyền như một người bạn đồng hành, bên cạnh là thùng lửa đốt để soi sáng. Hình ảnh lửa thuyền chài trên sông đã khiến tôi nhớ đến một câu trong bài thơ cổ. “Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.” Thi sĩ Tản Đà đã dịch nguyên bài như sau:
Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi
Lửa chài, cây bãi, đối người nằm co
Con thuyền đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San (5)
Bài thơ có thể tả cảnh mùa hè, ban ngày trời nóng nhưng đêm có sương. Trước kia đọc bài thơ tôi không thể tưởng tượng được hình ảnh giang phong ngư hỏa như thế nào. Một ngày cuối hè đứng ở bến sông Uji, bên chân cầu Kisen, nhìn những con chim cốc được nuôi trong lồng, và lửa thuyền chài trên một tấm áp phích, tôi dường như nghe được tiếng chuông chùa, không phải của Hàn San Tự mà của Byodo-in cách đó chừng vài trăm mét. Bài thơ cổ trở nên lộng lẫy hơn nhờ hình ảnh thuyền chài đi săn cá bằng con chim cốc.
Cái đẹp về mùa hạ trên sông nước còn nhiều, thí dụ như đi câu cá fly fishing, chèo thuyền kayak, ngắm cảnh…
“Sóng gợn trường giang buồn điệp điệp. Con thuyền xuôi mái lướt song song. Thuyền về nước ngược sầu trăm ngã. Củi một cành khô lạc mấy giòng” (6). Nhưng bài đã dài, xin hẹn bạn đọc lần sau vậy.
__________________
1/ Xuân Tâm – Nghỉ hè
2/ Thence up he flew, and on the tree of life,
The middle tree and highest there that grew,
Sat like a cormorant; yet not true life
Thereby regained, but sat devising death.
John Milton. Paradise Lost (Kindle Locations 951-952)
3/Nhà văn Hoàng Hải Thủy đã phóng tác tựa đề này thành cái tên rất đẹp, Kiều Giang. Nghe rằng Kiều Giang cũng là tên của ái nữ của ông.
4/Bản dịch từ tiếng Nhật sang tiếng Anh của R. H. Blyth. Trích trong tập III, Summer/Autumn
5/ Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô tô thành ngoại hàn san tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
Phong Kiều Dạ Bạc – Trương Kế
6/ Thơ Huy Cận