Trời vừa tắt nắng, hai bên đường phố đông đúc xe cộ ngược xuôi. Ngày cuối tuần nên quán xá cũng đầy người. Bãi đậu xe chật cứng không còn chỗ trống. Chạy tới chạy lui, lòng vòng một đỗi cũng thấy có người rời đi. Sau khi đậu xe an toàn, tôi đi lững thững vào dãy phố đằng trước, ngoài mặt tiền. Đèn đường sáng rực hòa cùng với ánh sáng đủ màu trên các bảng hiệu nhà hàng, làm thành một khu ăn uống sầm uất của người Việt trong vùng Little Saigon. Chúng tôi có hẹn gặp nhau ở nhà hàng Gà Bistro. Chỉ độ chừng 10 người thôi, nhưng người bạn “chủ quán” cũng gọi tới, gọi lui, sợ có ít người tới dự sẽ kém vui và làm mất hào hứng của buổi họp bạn rất đặc biệt này.
Anh em có mặt đầy đủ, ngồi tán dóc chờ người bạn phương xa đến. Đúng giờ, một người đàn ông đầu đội mũ len trùm đầu màu vàng nghệ, mặc bộ đồ tu sĩ màu nâu đậm, bước vào quán, trên cổ tay có đeo một vòng chuỗi màu gụ đen bóng láng. Tự động như máy, anh em lật đật đứng dậy, ấp a ấp úng, không biết gọi xưng nhau bằng gì. Người đàn ông đến đứng ở đầu bàn dọn sẵn lên tiếng trước:
– Chào quý huynh.
– Chào thầy.
Lâu lắm, có lẽ gần 50 năm sau ngày ra trường ở Sài Gòn, giờ mới gặp lại người bạn này, nay là tu sĩ, hiện cư trú ở tiểu bang Texas. Không ngờ gặp lại bạn sau gần nửa thế kỷ, thấy dáng dấp giờ khác xưa nhiều, mặt mày hồng hào, trắng đẹp với đôi chân mày quắc thước như tiên ông đạo cốt.
– Thầy trông thật uy nghi giống như một vị cao tăng.
– Không phải vậy, cũng nhiều thứ bệnh lắm.
Sau khi yên vị, ngoài thức ăn mặn của nhà hàng, anh bạn chủ quán còn cẩn thận bày ra một số thức ăn không có thịt cá, toàn rau cải xào và đậu hủ chiên giòn, chay mặn đều dùng được cả. Thức uống chưng trên bàn có vài chai rượu vang đủ hiệu do anh em mang tới để đãi.
– Thầy dùng thức uống gì?
– Xin cho một ly nước lọc.
– Có “bia chay”, có mùi bia nhưng không có cồn. Thầy dùng được không?
– Cám ơn. Đã chay tịnh rồi thì còn giả mặn làm gì.
Sau khi mọi người chào hỏi xong xuôi, chỉ độ chừng mươi phút sau, ngoài cửa đi vào một gia đình hai vợ chồng còn trẻ với ba đứa con nhỏ, thoáng thấy dáng thầy, họ đi thẳng đến bàn ăn, chưa kịp nói câu nào, mấy đứa nhỏ vội chạy đến vây quanh thầy ríu rít:
– Ông ngoại, ông ngoại…
Cả bàn còn chưa hết ngạc nhiên, thầy giới thiệu ngay với mọi người đây là gia đình của đứa con gái hiện sống ở San Jose, cả gia đình xuống đây đi chơi ở khu giải trí Disneyland. Sẵn dịp này có mời thầy qua Cali để cho gia đình được gặp nhau. Thầy nói:
– Một công hai việc, vừa gặp gia đình vừa họp mặt bạn bè đồng môn.
Thế rồi trong suốt buổi tiệc ngày hôm ấy, câu chuyện xoay quanh như một đoạn phim quay chậm, lần lượt đường đời trăm ngã hiện về…
__________
Hồi ấy khi mới thi đậu vào Học viện Quốc Gia Hành Chánh, một số sinh viên ở xa, quê quán thuộc các tỉnh miền Trung, nếu có đơn xin sẽ được ưu tiên cho vào cư trú trong Ký Túc Xá của trường; sau đó chừng bốn tháng, khi các khóa trước ra trường, trống nhiều chỗ thì mới đến lượt những sinh viên ở miền Nam hay quanh Sài Gòn được vào. Thầy người quê quán ở Long Xuyên, An Giang, nhưng lại được vào ở đợt đầu tiên. Anh em hỏi sao vào sớm vậy, có điều kiện gì đặc biệt không? Thầy cười trả lời “tại số nó vậy.”
Trong suốt gần bốn năm ở trường, thầy là sinh viên chăm chỉ học giỏi; còn là người tham gia nhiệt tình mọi sinh hoạt của trường, đàn ca hát xướng, đôi khi còn giữ vai diễn trò hay MC trong các buổi họp mặt. Năm thứ tư cuối khóa, thầy là thành viên Ban chấp hành Đoàn sinh viên của một đảng phái chính trị đang phát triển mạnh lúc bấy giờ. Điểm đặc biệt của thầy là việc gì một khi đã quyết tâm làm thì đều làm đến nơi đến chốn và luôn nổi bật.
Đến khi ra trường, thầy chọn nhiệm sở tỉnh Kiến Tường (Mộc Hóa) cách Sài Gòn khoảng 120 cây số theo đường quốc lộ 4 qua ngã Cai Lậy, Tiền Giang. Thầy được bổ nhiệm về làm việc ở Tòa Hành Chánh tỉnh Kiến Tường.
Mộc Hóa tuy là tỉnh lỵ nhưng nhỏ và đìu hiu hơn so với ngay cả quận Cai Lậy. Phố xá thưa thớt, đi vòng một lượt theo dọc bờ kênh là hết. Chỉ có khu phố quanh chợ là tương đối nhộn nhịp. Quán ăn cũng ít, dòm qua dòm lại cũng có bấy nhiêu quán sập xệ, chỉ có quân nhân, công chức xa nhà là thường hay tụ tập ra đây. Buổi tối chỉ có một vài quán cà phê nhạc. Không cần bật đèn mờ vì cả thị trấn đèn đường đã mờ sẵn từ khi mặt trời lặn. Buồn lắm.
Ngày hai buổi ở tòa tỉnh ra là hết việc, trừ khi trực ở cơ quan, thầy về cư ngụ trong dãy nhà lợp tôn, nền tráng xi măng thủng vá nhiều nơi, dành cho các viên chức, rồi cùng với mấy anh em độc thân hằng ngày ra ngoài tiệm ăn cơm tháng. Rảnh rỗi vào buổi tối nên đêm nào thầy cũng ra quán gần nhà uống cà phê nghe nhạc tới khuya. Lâu dần rồi quen, hơn nữa cô chủ quán lại trẻ và xinh đẹp thuộc dạng nhất, nhì ở chợ Kiến Tường. Riết rồi quen luôn cô chủ quán. Tiếng đồn lan ra cả thị trấn. Thầy vẫn bình thản trước sự thêu dệt của mọi người. Có ai thắc mắc về chuyện trăng hoa ong bướm, thầy cũng trả lời “tại số nó vậy.” Năm sau, thầy về quê cưới vợ và sanh được một đứa con trai thì cộng sản về thành, chiếm thị trấn tháng 4 năm 1975. Họ bắt thầy đi cải tạo. Chia lìa từ đó.
__________
Năm năm sau, khi cải tạo về, vợ con bặt vô âm tín, thầy về Mộc Hóa tìm kiếm hỏi thăm nhưng không ai biết tung tích hai mẹ con. Sau đó thầy vượt biển thành công đến Mỹ rồi lập gia đình mới, định cư ở San Jose, có được hai con, một trai một gái. Khi các con trưởng thành lập gia đình ra riêng, cũng ở quanh vùng Bắc Cali, chỉ còn lại hai vợ chồng. Rảnh việc nên ban đầu cả hai tham gia các đạo tràng Phật giáo đọc kinh luân phiên tại nhà của các đạo hữu. Sau này, đạo tràng phát triển đông nên thường tổ chức đọc kinh ở chùa và tất cả đều sinh hoạt như cư sĩ tại gia.
Thời gian trôi đi, cuộc sống vẫn vậy. Chợt một hôm trong lúc chuyện trò với những người mới sang Mỹ định cư theo diện đoàn tụ gia đình, thầy được biết trước đây các gia đình này có nhờ dịch vụ tại Việt Nam tìm kiếm thân nhân thất lạc trong chiến tranh. Thầy lại nhớ về Mộc Hóa, nhớ hai mẹ con thất lạc đã lâu. Hay là thầy về Mộc Hóa một chuyến xem sao? Ban đầu còn suy đi tính lại, thời gian cách biệt đã lâu, mọi chuyện đời đã đi vào quên lãng, nhưng hình ảnh nơi xưa chốn cũ lâu lâu hiện về. Thầy quyết định một mình về Mộc Hóa để tìm lại tung tích gia đình, may ra biết được “mẹ con nó giờ ra sao.” Sống yên nơi, yên chỗ, chết có mồ, có mả.
Suốt mấy tháng trời thầy dọ tìm một số nơi quanh Kiến Tường, An Giang, Châu Đốc. Tất cả đều không truy ra manh mối. Cuối cùng, thầy trở về Mỹ, đột nhiên từ giã vợ con vào chùa xuống tóc qui y, tu hành luôn từ đó. Có ai hỏi tại sao vậy, về Mộc Hóa thất vọng, buồn chán việc đời nên đi tu chăng? Thầy cũng chỉ trả lời “tại số nó vậy.”
Đi tu cũng không được yên. Cứ khoảng vài năm, thầy lại chuyển từ chùa này sang chùa khác. Lần gần đây nhất, từ San Jose, thầy chuyển về vùng sa mạc San Bernadino, thuộc Nam California và trở thành phụ tá cho hòa thượng trụ trì một ngôi chùa gọi là “Làng Di Đà.” Lúc bấy giờ, Làng có phong trào tu tập theo thời hạn do mình sắp xếp. Phật tử có thể khấn tu tùy theo điều kiện, có người nguyện tu 10 ngày, có người một tháng. Thậm chí có thể tu tại “Làng” chỉ hai ngày cuối tuần. Cả vợ chồng ở chung một phòng đều được cả.
Làng có nhiều dãy chia thành nhiều phòng như nhà trọ. Phật tử có thể đăng ký mua để ở, làm nơi tu tập. Làng có bếp tập thể phục vụ Phật tử có đăng ký ở trọ trong Làng. Phật tử quanh Quận Cam và phụ cận đến tu tập khá đông. Thầy trở thành giám đốc điều hành Trung Tâm Phật học ở Làng Di Đà và công việc quản lý rất có hiệu quả khiến nhiều người thán phục. Ngoài ra, thầy có tài thuyết giảng thu hút mọi người. Tiếng lành đồn xa, tên tuổi thầy được nhiều người ngưỡng mộ. Người ta gọi thầy là Thầy Tuệ Quang.
__________
Đang khi “Làng Di Đà” phát triển tốt thì đùng một cái, thầy lại bỏ đi. Một số Phật tử thắc mắc và dò hỏi thì có người cho rằng thầy gặp rắc rối về quản lý tài chánh; số khác thì đồn rằng, có một nữ thí chủ xinh đẹp đến quyến rũ thầy. Từ đó thầy biệt tăm, không ai biết, cho đến khi một số bạn bè ở Texas cho hay là thầy đã về nơi đây. Khi đến Texas, thầy xin vào một ngôi chùa ở Houston để tu tập, nhưng vị hòa thượng trụ trì từ chối, vì chùa đang hồi khó khăn về tài chánh và Phật tử viếng chùa cũng rất ít, chỉ trừ ngày Rằm.
Khi ấy, có một người bạn học quen trước đây mời thầy về nhà mình tạm trú, với giá rẻ, ở trong garage được thiết kế sơ sài. Được một thời gian, thầy nộp đơn xin chỗ ở trợ cấp (housing) của chính quyền địa phương. Mọi việc thông suốt, nơi ăn chốn ở tương đối ổn định, thầy bắt đầu tham dự các sinh hoạt Phật sự trong vùng. Ban đầu thầy đăng đàn thuyết giảng, sau đó trở thành thầy tụng cầu siêu cho thân nhân Phật tử qua đời. Bấy giờ chùa nào cũng mời thầy về tu tập ở chùa, vì ngoài việc tụng cầu siêu tại tư gia, một số Phật tử còn muốn mời khách đến chùa dự lễ cầu siêu. Thầy qui y lại và có pháp danh mới: Thầy Nguyên Hồng.
__________
Sau khi ở quán ăn ra, anh em mời thầy về nhà một anh bạn ở Garden Grove. Thầy đồng ý và tiễn gia đình đứa con gái trước cửa tiệm. Trên đường về ngồi chung xe, tôi hỏi nhỏ, cơ duyên nào khiến thầy rời “Làng Di Đà” hồi 10 năm trước để bay sang tận Texas. Thầy bảo “tại số nó vậy.”
Số là khi thầy về chùa ở “Làng Di Đà” được mấy năm, Chùa đang hồi phát triển tốt, Phật tử ngày càng đông nên công việc cần thiết là xây dựng qui mô lớn để có sức chứa phục vụ cho hàng ngàn người đến tu tập trong tương lai. Thế rồi một buổi xế chiều, khi Phật tử chuẩn bị vào nhà ăn tập thể, và thầy cũng bận rộn sắp xếp các thứ, thì thầy bỗng thốt lên “A Di Đà Phật.” Đứng trước mặt thầy là một phụ nữ đứng tuổi, mặc áo già lam. Bà cũng rất xúc động. Bà bối rối chấp tay niệm “A Di Đà Phật.” Đó chính là người vợ trước mà thầy từng về Mộc Hóa tìm kiếm hơn 10 năm trước.
Đến đây, một câu chuyện thương tâm được kể lại. Từ khi thầy đi tù, hai mẹ con nán ở lại Mộc Hóa được một thời gian ngắn. Không chỉ gặp nhiều khó khăn về đời sống mà còn là các mối quan hệ xã hội mới. Vợ thầy là người có nhan sắc nên lại càng có nhiều điều phức tạp. Một người bà con trong “bưng” mới ra khuyên, nếu muốn sống thì chỉ có một con đường duy nhất là thay tên đổi họ và bỏ đi xứ khác làm ăn. Đừng mong chồng đi cải tạo về, có khi ổng đã bỏ mạng trong trại cải tạo rồi không chừng.
Vợ thầy nghe lời, nhờ người làm giấy tờ khai tên mới rồi hai mẹ con trốn đi biệt xứ, xuống tận Cà Mau. Sau đó bà lập gia đình với một người địa phương cho đến khi được gia đình bên nhà chồng bảo lãnh sang Mỹ. Qua đây được vài năm thì chồng lâm trọng bệnh qua đời. Đứa con trai lập gia đình ra riêng, có công ăn việc làm ổn định. Không còn vướng nợ đời, bà xuống tóc qui y, tu hành tại gia từ đó đến nay. Sau khi gặp lại người xưa, dù không ai biết, thầy âm thầm quyết định rời chùa, chuyển đi Texas…
Tôi chợt nhớ đến bài Kệ cổ của Phật giáo.
Hữu dã hồi
Vô dã hồi
Mạc tại giang biên lãnh phong xuy.
“Có cũng về,
Không cũng về.
Thanh xuân giờ đã xa biền biệt,
Dừng lại bên sông, lạnh bốn bề…”