Tác phẩm (Ký Ức Sơ Sài) của nhà giáo Nguyễn Anh Khiêm, có ghi lại một câu nhận định của bạn bè tác giả về nơi sinh trưởng của ông: “Này, tao nói thật nghe, Quảng Nam mày mười thằng thì tao thấy hết chín đứa liều mạng rồi. Nói thế cũng không đúng hẳn, tao thấy thật ra là … chín thằng rưỡi!”
Tôi cũng quen biết đâu chừng vài chục ông/bà Quảng Nam. Nhận xét của tôi về họ thì hơi khác: mười người chỉ cỡ tám kẻ liều mạng mà thôi, hai còn lại thì cẩn trọng và dè dặt hơn (chút xíu) nhưng cũng sẵn sàng bán mạng hay liều mình – khi cần.
Nguyễn Chí Thiệp (NCT) thuộc loại này.
Ở trang bìa sau của cuốn Trại Kiên Giam – do Sông Thu xuất bản lần đầu, năm 1992 – tôi thấy in dòng chữ sau: NCT sinh năm 1944 tại Quảng Nam, tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh 1965 – 1969, trường Bộ Binh Thủ Đức 1966, Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt 1970…
Tác giả – rõ ràng – không phải là kẻ liều lĩnh mà là mẫu người của cửa Khổng sân Trình, với tâm niệm tu thân/tề gia/bình thiên hạ. Tuy thế, thay vì theo đúng lời dậy của Khổng Tử (nguy bang bất nhập loạn bang bất cư / không vào nước lâm nguy, không ở nước loạn lạc) cho nó chắc ăn thì NCT lại hành xử khác hẳn. Liều lĩnh hơn thấy rõ!
Dù là một công chức cao cấp của chính quyền miền Nam nhưng ông không chịu di tản ra nước ngoài, và cũng nhất định không chịu “đi trình diện học tập” (như bao kẻ khác) sau khi vùng đất này thất thủ.
Đã thế, NCT còn tính “vào bưng” luôn nữa chớ – theo như lời của chính ông, qua tác phẩm thượng dẫn: “Có người móc nối tôi vào tổ chức Phục Quốc, nhưng tôi từ chối vì biết không thể hoạt động ở nội thành – vào bưng để chiến đấu thì không có tổ chức nào có mật khu. Có lần tôi lên Dốc Mơ, để được đưa vào mật khu, không thành …”
Chả trách, NCT bị bắt với tội danh (“tham gia tổ chức phản cách mạng”) tuy không hoàn toàn chính xác nhưng cũng chả oan ức gì cho lắm. Vào tù không lâu, ông đã gặp ngay giáo sư Đoàn Viết Hoạt – một nhân vật cũng vô cùng liều lĩnh dù không hề dính dáng chi đến Quảng Nam – và hai người lại “rù rì” tính chuyện tiếp tục… vá Trời:
“Chúng tôi mong được đóng góp và chia sẻ với những anh em trẻ bị bắt trong các tổ chức phục quốc. Giúp họ thêm một phần hiểu biết, cộng với nhiệt tình của tuổi trẻ và lòng căm thù sâu sắc với Cộng sản, để trước hết là những ngày tù không trở nên vô ích, không bị hủy hoại tinh thần trí óc bởi sự nhàn rỗi…
Thứ nữa, để anh em hiểu biết rằng là tại sao mình chống Cộng và mình chống Cộng để xây dựng cái gì cho đất nước – Lòng căm thù là một động lực để có hành động chống Cộng, nhưng lòng căm thù chưa đủ, và lòng căm thù lại càng không thích hợp cho sự xây dựng…
Về sau vì số các em càng đông, không thể ngồi nói chuyện được, anh em đề nghị làm tài liệu viết… Chúng tôi bắt đầu phổ biến tài liệu viết, đặt tên là tập ‘Rèn Luyện.’
Thể thức phổ biến là lập các địa điểm hộp thư tại sân khấu hội trường, anh em thân thiết tin cậy được chỉ những hộp thư đó, đọc xong để lại và thống nhất cách khai nếu bị bắt, khai là lượm được tò mò đọc chơi không biết của ai.
Những anh em có nhiệm vụ ‘lên khuôn’ cố gắng viết chữ in và tránh nét chữ quen thuộc của mình để tránh điều tra phát hiện. Tài liệu ‘Rèn Luyện’ được duy trì cho tới tháng 3-1979, đa số anh em chuyển trại vào khu nhà xây mới chấm dứt.”
Qua tháng 9 cùng năm, khi chuyển đến Trại Trừng Giới A20 và gặp gỡ thêm nhiều bạn đồng điệu (liều mạng) khác thì NCT lại tiếp tục làm báo nữa. Thế là tờ Hợp Đoàn được hình thành giữa chốn lao tù:
“Trao đổi ý kiến với Trần Danh San và Vũ Văn Ánh, chúng tôi đồng ý với nhau cần phổ biến rộng rãi hơn những hiểu biết ít ỏi về chế độ Cộng sản, về những vấn đề trọng đại của thế giới, để cùng nhau có những cái nhìn xa hơn và sẵn sàng chấp nhận một thời gian tù đày lâu dài, có một niềm tin là chế độ Cộng sản sẽ sụp đổ…
Hợp Đoàn xem như là một thành công, anh em tiếp nhận đọc rất thận trọng và nghiêm túc. Thực chất nội dung vẫn chưa hẳn là một tờ báo đáng giá gì nhưng vì ở trong tù vừa khó khăn vừa nguy hiểm, mỗi lần Ánh hay Cường viết và lên khuôn tờ báo, những anh em thân thiết đều phải canh chừng và tổ chức đánh cờ chung quanh để tránh sự dòm ngó của ăng-ten, nên công một người thành công của nhiều người. Anh em đọc (cũng) cố bảo vệ nó như người phát hành, vì nếu đổ bể ra thì tất cả đều bị chịu thiệt hại.”
Tất nhiên là phải đổ bể thôi, và sự thiệt hại (xem ra) hơi nhiều – theo như tường thuật của người tù Nguyễn Thanh Khiết, trong cuốn Ký Ức Bỏ Quên:
Cũng vì tờ Hợp Đoàn mà 1983 có gần 60 mạng vào biệt giam… Tháng 10-1986 Alpha, Nguyễn Chí Thiệp, Trần Danh San, Trần Bửu Ngọc, Ngô Văn Ly, Nguyễn Tú Cường, cùng vài đấng máu mặt bị quăng lên xe đưa về trại T20 (Thành Gia Định).
Bọn chèo dứt khoát muốn đào tận gốc rễ tờ báo “Hợp Đoàn.” Chính vì thế tại trại giam này, một số các anh được thả từ 1981-82 cũng bị hốt lại, trong đó có mặt những hào kiệt từng làm điêu đứng bọn cai tù ở trại A20, Phạm Đức Nhì, Trần Đức Long, Bùi Đạt Trung, Nguyễn Văn Hiếu, Phạm Chí Thành …
Đến nông nỗi này rồi, và đã qua hơn 10 năm bị giam cầm nhưng NCT vẫn chưa biết sợ. Ông lại vẫn “liều mình” để cứu bạn:
“Cả đêm hôm đó và những ngày tiếp theo tôi suy nghĩ làm thế nào để cắt vụ án cho gọn và nhẹ, càng ít người dính dáng càng tốt, tôi đã bị Hải và Ly khai quá rõ, chừng đó đối với pháp chế của Việt Cộng cũng đủ buộc tội, dù tôi không nhận.
Vậy tốt hơn là tôi theo đúng như lời Hải khai, tôi nhận là chủ trương tờ báo… Tôi sẽ cắt phần đóng góp của anh Trần Danh San vì có thêm anh San vào không có ích lợi – kể cả phần của Ánh cũng vậy, tôi sẽ khai giống như Hải, Ánh chỉ là người cộng tác mà thôi. Thực ra, Ánh là người chủ chốt.”
May mắn là Viện Kiểm Sát Nhân Dân đổi ý vào phút chót nên vụ báo Hợp Đoàn được cho chìm xuồng êm thắm. Dù có ngu tối và tàn ác đến đâu chăng nữa, nhà đương cuộc Hà Nội – cuối cùng – cũng phải nhận thức được rằng làm lớn chuyện báo chui (underground press) trong một trại tù thì chả được cái giải gì sất cả, ngoài việc khiến cho thiên hạ thấy rõ thêm tính chất bất khuất của những kẻ thuộc bên thua cuộc.
Nhờ thế, sau hơn 13 năm tù (với nhiều năm biệt giam) NCT được phóng thích vào hôm 13 tháng 2 năm 1988, khi đã ngoại tứ tuần.
Thế là coi như xong một kiếp người chăng?
Chưa “xong” đâu. Dễ gì mà một thằng cha liều mạng cỡ NCT chịu “xong’ như vậy. Bạn học của ông, nhà thơ Luân Hoán cảm thán: Mừng ông, lẽ đương nhiên/ nhất là khi được biết/ ông vượt Trại Kiên Giam/ trở thành người cầm viết.
Tất cả những câu văn trong ngoặc kép (thượng dẫn) đều được trích dẫn từ Trại Kiên Giam. NCT hoàn tất tác phẩm này vào năm 1990, và được xuất bản (lần đầu) vào năm 1992. Thế mà mãi đến ba mươi năm sau tôi mới hân hạnh được cầm đến cuốn sách, và liên lạc được với tác giả. Thực là đáng tiếc, và đáng trách. Tôi mong được ông thứ lỗi vì sự muộn màng và chậm trễ này.