Tôi từng là một con ngựa hoang

Viết theo lời kể của Anh Hòa
(Hình: Nhân vật cung cấp)

Sinh ra vào thời chiến, nên sau khi hết “tú tài đôi” ba tôi đi lính, nhập ngũ ở quân trường Đồng Đế, Nha Trang. Sau khi tốt nghiệp vì là đồng hương với tổng thống và cũng có đạo Công Giáo, cho nên ông được đưa về làm cận vệ của Ngô Tổng Thống. Thiên thời – Địa lợi – Nhân hòa chính là cái không hội tụ đủ. Năm 1963 nhà Ngô Tổng Thống bị thanh trừng, ba tôi cũng lưu lạc vào Sài Gòn và tiếp tục khoác màu áo đen của cán bộ xây dựng nông thôn.

Thời điểm sau năm 1975, đi học tập cải tạo một thời gian ngắn, nghiệp binh không còn, loay hoay một mình ở xứ lạ quê người, ông quyết định thay tên và làm lại cuộc đời. Vì có cất giữ một số vàng trước 1975, vài năm sau, ba tôi đã là một ông chủ của một trại chăn nuôi lớn. Cái cách ông lèo lái gia đình và dạy dỗ anh em tôi cũng pha chút tác phong nhà binh. Anh chị em tôi phải thức dậy từ 5 giờ sáng để tập thể dục và sau đó cùng nhau học bài. Công việc gia đình cũng phân công rõ ràng. Vào những năm từ 1976 đến 1979 ông áp dụng các công nghệ mới vào trong chăn nuôi: Mô hình Vườn- Ao- Chuồng, trồng rau, nuôi cá, nuôi heo gà… Cách chọn con giống rất khoa học, gà ấp bằng những máy chạy bằng bóng đèn điện. Chuồng trại lúc nào cũng vệ sinh sạch sẽ. Gà sau một chu kỳ 3 tháng phải thay chuồng mới, chuồng cũ tháo ra vệ sinh-phơi nắng sát khuẩn…

Vào thời kỳ ngăn sông cấm chợ, mọi thứ cần mua đều phải xếp hàng, các mặt hàng lương thực, thực phẩm khi vận chuyển qua các trạm thuế vụ cần phải có giấy giới thiệu với con dấu đỏ. Cái giấy thông hành này chỉ duy nhất cơ quan nhà nước hay hợp tác xã mới có. Café, bắp hạt, các loại thực phẩm… đều tự cung tự cấp. Các tay buôn lậu chỉ cần lén mua một bao café hay một bao tạ bắp ngô, đem lọt qua các trạm thuế vụ, mang về thành phố là có thể kiếm lời cả chỉ vàng. Bọn thiếu niên chúng tôi thường dẫn dắt và đẩy phụ các anh xe thồ chạy qua các chốt thuế vụ khi họ nghỉ ăn cơm hay đổi gác để được vài đồng xu. Ba tôi đã dùng công nghệ “củ khoai lang” khắc ra 1 con dấu và đánh máy một loạt giấy giới thiệu để mạ tôi ra ngoài Vũng Tàu mua khô đống về xay ra với bắp để làm cám cho heo ăn. Thanh niên cả làng thường hay giúp nhà tôi phơi cá khô mỗi khi có đợt mua hàng về. Nhiều người khó khăn còn xin ba tôi mấy con khô ngon đem về ăn…

Vào cái ngày định mệnh ấy, thời tiết mùa hè nóng nực, ba tôi vẫn mang trong người cái bệnh cao huyết áp. Các bài thuốc dân gian đã không  kìm giữ được áp lực vừa phải trong mạch máu. Một hôm đang trong bếp nấu nồi cám heo, bỗng ba tôi lảo đảo, miệng lắp bắp không nói nên lời. Cái tiếng tôi nghe rõ nhất là: “kêu… kêu…kêu..” Tôi nghĩ ngay ba tôi bảo tôi đi kêu mạ tôi về.

Loanh quanh khắp xóm khoảng 15 phút sau tôi gọi được mạ tôi về đến nhà. Khi đó ba tôi đang nằm sóng soài, mắt khép hờ. Mạ tôi nhanh chóng dựng ba tôi dậy lau chùi máu đang trào ra trong mũi, miệng. Gọi được chiếc xe lam tôi và mạ tôi cùng ai đó mà tôi không nhớ rõ, đưa ba tôi vào bệnh viện đa khoa Thủ Đức để cấp cứu, nhưng trễ rồi, sau khi khám cho ba tôi bác sĩ nói ba tôi đã qua đời…

Ba qua đời khi tôi chỉ mới 12 tuổi. Cuộc sống của gia đình tôi, vốn luôn nằm trong khuôn khổ, bỗng chốc thay đổi một cách đột ngột. Trước đó, mỗi ngày tôi đều phải đi học và giúp đỡ mẹ công việc nhà cửa. Mọi thứ đều có một trật tự rõ ràng, một nề nếp mà tôi đã quen thuộc từ lâu. Nhưng sau cái ngày ấy, khi cha không còn, tất cả như vỡ tan.

Ngày nào cũng vậy, mẹ loay hoay với công việc, lo cho đám anh em tôi từng bữa ăn, giấc ngủ. Còn tôi, không còn phải phụ giúp mẹ nữa, không còn những lời nhắc nhở hay trách móc mỗi khi lười biếng. Cả thế giới như rơi vào im lặng, và trong cái im lặng ấy, tôi cảm thấy mình được tự do. Tự do theo một cách kỳ lạ. Tôi có thể làm những gì mình muốn, có thể chơi đùa mà không ai để ý, không ai giám sát, và cũng chẳng ai lo lắng.

Cảm giác này vừa mới lạ, vừa nhẹ nhõm, nhưng đôi khi, nó khiến tôi cảm thấy lạc lõng. Bởi vì bên trong tôi, vẫn còn những nỗi lo lắng, những cảm giác hụt hẫng mà tôi không biết phải chia sẻ cùng ai. Mẹ tôi, dù lo toan mọi thứ, nhưng hình như vẫn không thể nhận ra rằng tôi đã lớn lên theo cách mà không ai ngờ tới.

Ngoài việc vẫn ngày ngày cắp sách đến trường, ở nhà tôi được giao nhiệm vụ tắm rửa và chăm sóc bầy heo nái – tài sản giá trị nhất mà ba tôi để lại trước lúc ra đi đột ngột. Bầy heo nái ấy giống như một phần của gia đình, như là di sản của ba, và tôi cảm thấy mình có trách nhiệm gánh vác nó. Nhưng tất cả những công việc đó, những khối lượng nặng nề của cuộc sống, cũng không thể che lấp nổi sự thật rằng ba tôi đã ra đi quá sớm, khi chỉ mới 42 tuổi. Một cái chết quá bất ngờ, không kịp báo trước.

Căn bệnh huyết áp cao, một căn bệnh di truyền mà hiện giờ tôi cũng đang mang trong mình, đã cướp đi ba tôi một cách nhanh chóng. Thời đó, những phương pháp chữa trị còn hạn chế, đặc biệt là ở những vùng ngoại ô nghèo như chúng tôi. Ba chỉ có thể dùng một số cách chữa trị dân gian, kể cả “thần dược” Xuyên Tâm Liên, để kéo dài thêm sự sống. Dù vậy, mọi thứ đều chỉ là tạm bợ, và rồi, ba tôi cũng không thể chiến thắng được căn bệnh đó.

Của cải trong nhà dần dần tiêu tán, không ai đủ khả năng quản lý, không ai đủ sức để giữ gìn những gì ba tôi đã tạo dựng. Rồi đến một ngày, bầy heo cũng phải bán đi. Những con vật mà tôi đã chăm sóc từng ngày giờ chỉ còn là kỷ niệm. Tiền học phí, sách vở, tất cả những thứ mà trước kia là điều hiển nhiên, giờ đây đều trở thành một giấc mơ xa vời. Tôi đành phải bỏ học khi chỉ mới hết lớp 10.

Cuộc sống gia đình càng thêm khó khăn. Ăn uống thì thiếu thốn, bữa đói bữa no, và tôi cảm thấy mình đang dần trở nên mờ nhạt trong chính cuộc sống của mình. Để có thể sống, tôi nghĩ học và bắt đầu lê la khắp xóm, tìm những công việc vặt để kiếm chút tiền, thậm chí là để ké một bữa cơm. Thời gian trôi qua, mọi thứ như một vòng luẩn quẩn, chẳng có lối thoát. Cuối cùng, áp lực của cuộc sống, của đồng tiền, và cái ăn đã đẩy tôi vào con đường mà tôi không bao giờ tưởng tượng được – con đường lao lý.

Lúc đó, tôi chẳng biết làm gì ngoài việc chấp nhận nó. Khi đã không còn lựa chọn, tôi chỉ biết vươn tay ra đón nhận số phận, dù biết rằng mình đang đi vào một con đường tăm tối mà rất khó để quay lại.

Vào một đêm nọ, khi màn đêm buông xuống và mọi thứ xung quanh trở nên tĩnh lặng, tôi cùng hai thằng bạn rủ nhau lẻn vào một ngôi trường tiểu học gần nhà để ăn trộm máy bơm. Ý tưởng này xuất phát từ sự mơ hồ, ham muốn kiếm tiền nhanh chóng mà không cần làm việc vất vả. Trường học đó không học vào buổi tối, và máy bơm cũ nằm im lìm trong kho, dường như không ai để ý.

Chúng tôi chuẩn bị kỹ càng, âm thầm lẻn vào trong đêm tối, không một tiếng động. Khi có được máy bơm, chúng tôi liền nhanh chóng mang ra ngoài và di chuyển ra ngoài khu vực trường học. Cảm giác hồi hộp và phấn khích lúc đó thật khó tả, nhưng cũng đầy lo sợ vì không biết liệu có ai phát hiện ra hay không. Nhưng khi đã ra được ngoài, ba đứa cảm thấy như đã chiến thắng, như đã làm được điều gì đó không ai dám làm.

Chúng tôi không mất nhiều thời gian để đưa máy bơm lên chợ trời Sài Gòn, nơi có thị trường mua bán đồ cũ sôi động. Tiền bạc đổi tay, cảm giác ấy làm cho mấy đứa thanh niên như chúng tôi mờ mắt. Cả ba chúng tôi ngây ngất trong cảm giác quyền lực và tự do mà đồng tiền mang lại. Dù biết là mình đã làm sai, nhưng những đồng tiền đầu tiên lại như một thứ ma thuật, khiến chúng tôi quên đi mọi thứ xung quanh, chỉ nghĩ về những gì mình vừa có được.

Nhưng chẳng ai biết rằng, mỗi bước đi sai lầm sẽ để lại hậu quả, và những đồng tiền có được từ những việc như vậy sẽ không bao giờ mang lại sự bình yên trong tâm hồn. Chúng tôi đã có những phút giây vui vẻ, nhưng bên trong lại có những thứ không thể lấy lại được. Dần dần, tôi hiểu rằng đồng tiền có thể khiến người ta mờ mắt, nhưng nó cũng có thể phá hủy tất cả những gì ta có, nếu không biết trân trọng.

Ăn quen rồi, nhịn không quen. Sau lần trót lọt với chiếc máy bơm, ba đứa tôi lại nảy ra ý định quay trở lại ngôi trường tiểu học đó. Lần này, thứ chúng tôi nhắm đến là những chiếc đồng hồ điện. Những chiếc đồng hồ này, tuy không phải là đồ vật gì quá quý giá, nhưng chúng lại có trị giá cao hơn máy bơm cũ, và có thể dễ dàng bán được. Kế hoạch lần này diễn ra khá suôn sẻ, không có gì đáng ngờ. Chúng tôi lén lút lấy đi mấy cái đồng hồ điện, rồi lại mang chúng lên Sài Gòn bán.

Nhưng lần này, vận xui đã tìm đến. Dù mọi chuyện lúc đầu có vẻ thuận lợi, chẳng mấy chốc trường tiểu học đã nhận ra bị mất mát một lần nữa. Với trị giá của những chiếc đồng hồ điện, trường quyết định báo công an. Một khi đã có sự can thiệp của công an, mọi chuyện không còn dễ dàng nữa. Họ quyết định điều tra đến cùng.

Không khó để công an tìm ra những chiếc đồng hồ ngoài chợ trời, nơi mà những món đồ bị đánh cắp thường xuyên được tuồn ra. Công an tiến hành điều tra và phát hiện ra chúng tôi. Mọi thứ như sụp đổ trước mắt. Cảm giác hồi hộp, phấn khích ban đầu giờ đây chuyển thành sợ hãi và lo lắng. Chúng tôi không nghĩ rằng một vụ việc tưởng chừng như đơn giản lại có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng đến vậy.

Đó là lúc tôi nhận ra rằng việc kiếm tiền nhanh chóng, bằng cách bất chấp lương tâm, chẳng thể nào mang lại sự bình yên trong lòng. Và dù cho chúng tôi có tìm cách trốn tránh, cái giá mà chúng tôi phải trả vẫn sẽ đến, như một điều tất yếu trong cuộc sống.

Thế là công an điều tra ra và tạm giam ba thằng tôi. Dù biết mọi chuyện sẽ không dễ dàng, tôi vẫn chẳng thể dừng lại trong cái suy nghĩ của một thằng anh hùng rơm. Tôi nhận tội cầm đầu, mặc dù trong lòng không hề cảm thấy tự hào về điều đó. Cảm giác sợ hãi và lo lắng lúc này mới là cảm giác thật sự chi phối tôi.

Trong thời gian tạm giam, tôi không hề nhận được sự quan tâm từ gia đình hay bạn bè, ngoại trừ gia đình người mua những chiếc đồng hồ. Họ gửi đồ qua thăm và cũng nhờ người nhắn dùm với tôi rằng: “Hãy khai rằng tôi tự bán cho họ, chứ họ không biết là đồ gian.” Câu nói ấy khiến tôi lưỡng lự, nhưng rồi lại là cái thói anh hùng rơm trong tôi lên tiếng. Tôi nhận hết mọi tội trạng, dù biết rằng mình đã sai.

Kết quả là, tôi bị phạt hai cuốn lịch – nghĩa là án tù hai năm. Trong khi đó, hai thằng bạn của tôi chỉ bị phạt sáu tháng tù giam. Cảm giác bất công ập đến. Tôi tự hỏi tại sao mình lại phải gánh chịu tất cả, trong cả ba đều ăn đồng chia đủ. Nhưng tôi không có cách nào để thay đổi được số phận lúc ấy.

(Hình: Nhân vật cung cấp)

Nhìn lại, tôi thấy mình không chỉ bị phạt về mặt pháp lý mà còn bị phạt cả về tâm hồn. Những ngày tháng trong trại giam đã khiến tôi hiểu rõ rằng sự vội vã kiếm tiền bằng mọi giá, bỏ qua đạo đức và lương tâm, không bao giờ đem lại kết quả tốt đẹp. Và đến cuối cùng, cái giá phải trả không chỉ là những năm tháng bị tước đoạt mà còn là sự mất mát trong lòng mình.

Cả thế giới như sụp đổ, tôi cảm thấy mình đang đi trên một con đường không có lối ra. Mỗi ngày trôi qua trong trại giam, tâm trí tôi như bị nghiền nát, không còn chút tinh thần hay hy vọng để sống. Những suy nghĩ bế tắc, những hình ảnh u ám cứ quẩn quanh trong đầu, khiến tôi cảm thấy mình không thể thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của chính mình.

Thế giới bên trong hàng rào sắt không phải là nơi dành cho lý trí hay trí tuệ. Nó là một nơi tăm tối, đầy sự hèn hạ và vô cảm, nơi mà chỉ có sự sống còn là quan trọng nhất. Mọi thứ ở đây đều được xác định bằng quyền lực và sự áp bức. Không có gì khác ngoài những người đàn ông tội lỗi và những kẻ đang cố gắng tồn tại qua từng ngày. Muốn sống sót, muốn vượt qua được thử thách này, không có cách nào khác ngoài việc đạp lên nhau mà sống.

Tôi đã chứng kiến những cảnh tượng mà tôi không bao giờ muốn nhớ lại, những cuộc xô xát, những trận đánh không thương tiếc chỉ vì một miếng ăn hay một chút quyền lực. Cảm giác cô đơn, tuyệt vọng khiến tôi càng thêm suy sụp. Và giữa tất cả những điều đó, tôi tự hỏi liệu mình có thể đứng dậy được nữa hay không, hay tôi sẽ bị nghiền nát bởi chính môi trường tăm tối này.

Nhưng rồi, giữa cái thế giới đen tối ấy, tôi cũng bắt đầu nhận ra một điều: nếu không có nghị lực để vượt qua, tôi sẽ mãi là một phần của cái vòng xoáy đó. Tôi không muốn mình trở thành một phần của những người vĩnh viễn bị giam cầm trong tâm hồn. Sự sống của tôi, dù trong hoàn cảnh tồi tệ đến đâu, vẫn phải có mục đích và ý nghĩa. Dù con đường phía trước có mịt mù, tôi biết rằng chỉ có bước đi, dù chậm chạp, mới có thể đưa tôi ra khỏi bóng tối này. Một ngày, tôi chợt nghe người bạn tù hát nghêu ngao câu hát :

“Một hôm, ngựa bỗng thấy thanh bình, thảm cỏ tình yêu dưới chân mình
 Ân tình mở cửa ra với mình. Ngựa hoang bỗng thấy mơ. Để quên những vết thù…”

(Lời bài hát “Vết thù trên lưng ngựa hoang”. Nhạc & lời: Phạm Duy – Ngọc Chánh)

Một hôm, ngựa bỗng thấy thanh bình, như một khoảnh khắc yên ả giữa cuộc sống hỗn độn. Thảm cỏ tình yêu trải dài dưới chân nó, xanh tươi và mềm mại, như một lời mời gọi về một tương lai khác. Những lời ca tiếng nhạc như những ngọn nến, nhẹ nhàng thắp lên trong trái tim ngựa một ngọn lửa hy vọng. Hy vọng vào một tương lai tươi sáng, nơi không còn những vết thương, không còn những đau đớn quá khứ.

Ân tình, như một làn gió mới, mở cửa ra với ngựa. Nó cảm nhận được một sự thay đổi, một sự dịu dàng từ cuộc đời. Lòng ngựa bỗng thấy bình yên, như thể những nỗi lo âu, những khổ đau trước đó đã được gột rửa. Ngựa hoang, bỗng nhiên thấy mơ, thấy một giấc mơ về tự do và yêu thương. Những vết thù, những dấu vết của quá khứ, dần dần phai mờ trong những khoảnh khắc êm đềm ấy.

Giống như ngựa, chúng ta đôi khi cũng cần một giây phút thanh bình để nhận ra rằng hy vọng và yêu thương luôn hiện hữu xung quanh, chỉ cần ta biết mở lòng và đón nhận. Chúng ta không phải sống trong quá khứ, mà phải sống trong hiện tại và hướng về tương lai. Cứ như vậy, mỗi ngày sẽ là một bước đi đầy hy vọng, dù có thể khó khăn, nhưng cũng đầy niềm tin vào những điều tốt đẹp phía trước.

Trở về với mái nhà xưa, nhưng ký ức về những ngày đen tối vẫn chưa phai nhòa. Những tháng ngày đầy khổ cực, tội lỗi và tuyệt vọng vẫn còn vương vấn trong tâm trí tôi, như những vết thương chưa kịp lành. Nhưng cuộc sống đâu thể dừng lại mãi ở quá khứ. Sau một thời gian, một cơ duyên tình cờ đã đến, đưa tôi xa gia đình một lần nữa, lần này là đến sống một mình trong căn nhà nhỏ nơi phố chợ nhộn nhịp.

Ở đó, tôi lại tìm thấy một chút bình yên trong những đêm dài. Người ta vẫn thấy tôi, một chàng lãng tử, đêm đêm ngồi đàn hát. Lời ca trong tiếng đàn, dù vui hay buồn, vẫn cứ rỉ rả hằng đêm, như một cách để tôi xoa dịu nỗi lòng. Và rồi, những người tri âm, tri giao đã xuất hiện. Họ đến và lắng nghe tôi, chia sẻ những câu chuyện cuộc đời, giúp tôi nhận ra rằng không phải lúc nào mình cũng cô đơn.

Chính từ cơ duyên này, tôi đã tìm lại được niềm tin và động lực để thay đổi cuộc đời. Tôi quyết định quay lại học hành. Người ta vẫn nói: “10 năm đèn sách tạo công danh.” Dù không còn là một thanh niên trẻ, tôi vẫn quyết tâm bắt đầu lại từ đầu. Tôi bắt đầu học bổ túc trung học, rồi tiếp tục lên đại học. Gần 10 năm trôi qua, từ một người không biết chữ đến khi tôi tốt nghiệp hệ chính quy của trường đại học sư phạm kỹ thuật.

Cứ như vậy, tôi đã bước qua những chặng đường đầy thử thách và dần dần thấy mình vững vàng hơn. Ngựa hoang cuối cùng cũng về tới bến sông, và giờ đây, tôi đã có thể cởi mở lòng mình ra với cõi đời. Từ những nỗi đau, những vấp ngã, tôi tìm thấy sức mạnh để tiếp tục sống, tiếp tục mơ, và quan trọng nhất là sống thật với chính mình.

Sự vấp ngã chỉ là một trang đen tối trong cuộc đời. Dù đau đớn và tăm tối, nhưng nó không làm tôi ngã gục. Những vết hằn ấy, dù có sâu sắc đến đâu, lại chính là những bài học quý giá. Chúng đã dạy tôi cách đứng dậy, dù trong hoàn cảnh khó khăn nhất, và tiếp tục tiến bước về phía trước. Mỗi vết thương trong tâm hồn là một dấu ấn không thể xóa nhòa, nhưng chúng lại giúp tôi nhìn cuộc sống bằng đôi mắt rộng mở hơn.

Những nỗi đau và thất bại không còn là điều gì đáng sợ nữa. Chúng trở thành một phần trong hành trình của tôi, giúp tôi trưởng thành hơn và hiểu rõ giá trị của từng khoảnh khắc. Tôi học cách quý trọng những điều nhỏ nhặt, những niềm vui giản dị trong cuộc sống hiện tại, vì tôi biết rằng cuộc sống này không phải lúc nào cũng dễ dàng. Những tháng ngày vất vả đã qua không phải là những điều phải hối tiếc, mà là những bước đệm cần thiết để tôi có thể nhìn nhận cuộc đời với một cái nhìn bao dung và rộng lượng.

Nhờ những vấp ngã, tôi học được rằng mỗi con người đều có những nỗi đau riêng, và những thử thách ấy không phải là để khiến ta thất bại, mà là để ta tìm thấy sức mạnh, sự kiên cường, và sự hiểu biết sâu sắc hơn về chính mình và thế giới xung quanh. Cuộc đời luôn có thể thay đổi, và tôi tin rằng dù đã trải qua bao nhiêu khó khăn, tôi vẫn có thể tìm thấy những niềm vui mới, những cơ hội mới. Những vết hằn ấy đã giúp tôi trở nên mạnh mẽ và yêu thương cuộc sống hơn bao giờ hết.

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: