Sao không dùng từ ‘trần thuyết’

Ý nghĩa của chữ “trần thuyết” là trần tình và thuyết giải. (Hình minh họa: Unsplash)

Ngôn ngữ vốn là sinh ngữ: sống, thở, thay đổi, nảy chồi và tàn lụi như mọi sinh vật khác. Tiếng Việt cũng vậy, chẳng phải cổ vật để đem cất trong tủ kính bảo tàng.

Ấy thế mà, thỉnh thoảng đi ngang vài diễn đàn mạng, thấy bà con bàn chuyện “bảo tồn tiếng Việt” cứ tưởng đâu đang giữ gìn mấy món đồ cổ của dòng họ. Cách bảo tồn của ta thì đơn giản: ai viết khác mình thì lập tức bu vô cắn xé, công kích.

Thế là “bảo tồn” biến thành “bảo tàng khẩu chiến.” Cũng may, nhờ bà con ham vui nên cảnh tượng mới náo nhiệt, giống chợ Bến Thành giờ tan chợ. Tôi vốn tánh ưa đùa, thấy bà con đấu khẩu thì cũng nổi hứng chen vào, coi như mua vui cũng được một vài trống canh.

Trong một trận khẩu chiến gần đây, có người nghiêm nghị hỏi: “Sao ông lại viết “trần thuyết” mà không gọi thẳng là thuyết trình cho gọn?” Thoạt nghe, tưởng chuyện vặt, nhỏ như con thỏ. Nhưng nghĩ lại, cũng đáng để “trần thuyết” cho ra lẽ, kẻo mai mốt ai cũng chụp mũ ai, thì chữ nghĩa thành ra oan uổng.

Vậy xin được moi chút vốn chữ nghĩa còn sót lại từ thời đi học ở Petrus Trương Vĩnh Ký niên khóa 1963–1964, đem ra bày tỏ, vừa học thuật vừa pha chút châm biếm để bà con dễ nuốt.

Trần thuyết – bài tập Quốc Văn thuở trước

Dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, môn Quốc Văn (xin nhớ kỹ: Quốc Văn, không phải “Việt văn” như sau 1975) có một phần tập làm gọi là trần thuyết. Học trò được yêu cầu đứng lên nói về một đề tài: không được đọc chép, cũng không được như bò nhai lại sách vở, mà phải nói rõ quan điểm cá nhân. Đó chính là ý nghĩa của chữ “trần thuyết,” nghĩa là trần tình và thuyết giải.

Thằng nào lanh lợi thì thao thao bất tuyệt, thằng nào nhút nhát thì cà lăm đỏ mặt, tay chân run lên như trúng gió. Nhưng cũng nhờ vậy mà học trò tập được thói quen đứng trước đám đông, nói có mở bài, thân bài, kết luận, chứ không phải ấp úng như gà mắc tóc, để sau nầy lớn lên làm chánh trị gia nói đóc tưởng như thiệt để gạt thiên hạ!

Thuyết trình – giọng điệu nhà binh

Ngược lại, chữ thuyết trình nghe quân sự hẳn hoi. Trong quân đội, sĩ quan thường “thuyết trình” kế hoạch hành quân: giờ nào xuất phát, đơn vị nào tấn công, đơn vị nào yểm trợ. Bảng đồ trải ra, con số rành rọt, giọng điệu khô khan. Một chữ sai là nguy to.

Vậy nên, đem chữ “thuyết trình” áp vào văn học nghệ thuật thì nghe gượng gạo, cứng đờ như bước đi trong thao trường. Chữ nghĩa mà khô héo vậy thì còn đâu cái bay bướm của văn chương?

Thuyết pháp – tiếng chuông chùa

Trong cửa thiền, ta lại gặp chữ thuyết pháp. Ở đây, “thuyết” gắn liền với “pháp” – lời Phật dạy. Thầy chùa thong thả giảng giải, tiếng mõ đều đều, tiếng chuông ngân nga. Cái “thuyết” này có tính an lạc, từ bi, khác hẳn cái hùng hồn của thao trường hay cái cà lăm của học trò.

Thuyết khách – chiến lược miệng lưỡi

Truyện Tàu chép nhiều “thuyết khách”: những kẻ chỉ có mồm mép mà xoay chuyển cả thiên hạ. Họ không cần gươm giáo, quân lính – chỉ cần lời nói. “Chiến Quốc sách” đầy ắp những ví dụ: một câu khéo, một ý mưu mẹo, đủ khiến vua đổi ý, tướng đổi phe. Cái “thuyết” ở đây là chiến lược ngoại giao bằng… nước bọt.

Thuyết minh – sản phẩm sau 1975

Sau 1975, bà con mới quen chữ thuyết minh phim. Trước đó thì gọi là lồng tiếng hoặc phụ đề Việt ngữ. Ai từng coi phim Ấn Độ ở rạp Long Phụng hẳn còn nhớ cảnh Út Bạch Lan cất vọng cổ chen ngang phim tình ca. Người xưa nghe tới chữ “thuyết minh” chắc cũng bật cười: đã “minh” (sáng) lại còn “thuyết”, chẳng khác nào “sáng chói gấp đôi.”

Thuyết phục – nói nôm na là năn nỉ

Trong sách vở, thuyết phục là dùng lý lẽ để khiến người khác tin theo. Nhưng trong đời thường, nhất là trong… hôn nhân, nó đồng nghĩa với “năn nỉ vợ”. Lý lẽ nhiều khi không cần, chỉ cần ánh mắt biết điều và giọng nói nhũn nhặn. Có ông từng thú nhận: “Thuyết phục vợ còn khó hơn thuyết phục một trung đoàn lính.” Quả thật, ai đã lập gia đình thì hiểu.

Danh sách chưa dừng ở đó: thuyết giáo (lên lớp dạy đời), lý thuyết (nói thì hay làm thì dở), giả thuyết (nói cho vui, chưa chắc đúng), học thuyết (hệ thống tư tưởng), rồi âm mưu thuyết (toàn suy đoán). Cùng một chữ “thuyết” nhưng ghép thêm chữ khác thì đổi nghĩa, đổi hồn. Chính đó là sự giàu có của tiếng Việt: một gốc chữ mà sinh ra cả rừng nghĩa.

Bảo tồn tiếng Việt – bảo tồn cái hồn, không phải cái xác

Quay lại chuyện “bảo tồn” trên mạng: bà con ta thường tưởng bảo tồn là giành nhau, cãi nhau, thậm chí chửi nhau. Nhưng thật ra, bảo tồn tiếng Việt không nằm ở tiếng to tiếng nhỏ, mà ở cách ta dùng chữ cho đúng, cho duyên.

Một chữ đúng, câu văn bừng sáng. Một chữ sai, ý nghĩa đảo ngược. Gọi là “trần thuyết” khác hẳn “thuyết trình”, mà cũng khác “thuyết pháp”. Mỗi chữ một cảnh, một hồn. Tiền nhân rèn chữ như rèn dao bén, nay ta mà xài cẩu thả thì hóa ra bất hiếu với ngôn ngữ.

Bàn chuyện chữ nghĩa cũng giống như uống trà. Nhấp vội thì chỉ thấy nhạt, nhưng ngồi lâu mới thấy hương vị thấm thía. Muốn bảo tồn tiếng Việt, ta không chỉ giữ vỏ ngoài, mà giữ cả tinh thần: cái duyên, cái đẹp, cái đúng chỗ.

Ngôn ngữ không phải pho tượng để lau bụi hằng ngày, cũng không phải bảo vật cấm đụng vào. Nó là sinh ngữ, nghĩa là sống động, biến đổi, và ta phải theo kịp mà vẫn giữ được hồn cốt.

Cho nên, hỏi “trần thuyết có sao không?” – Xin thưa: không sao cả. Miễn ta hiểu gốc gác, dùng đúng chỗ, thì chữ nào cũng có chỗ đứng. Bảo tồn tiếng Việt không phải là khóa chặt nó trong lồng kính, mà là giữ cho nó vừa linh hoạt vừa tinh tế. Nói cho cùng, tiếng Việt tồn tại được chính nhờ sự sống động ấy – chứ không phải nhờ những cuộc cãi vã om sòm trên mạng.

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: