Hôm đầu Vân đến nhận việc khi các lớp bình dân học vụ đang còn được nghỉ Tết. Vài tuần sau có tin không vui là các giáo viên phải tiếp tục dạy các lớp này và phải phân tán mỏng và lội sâu vào tận hẻm hóc, để tập hợp các học viên làm lớp học. Trước đó các học viên đi đến trường để học. Nhưng rồi họ đã mệt mỏi vì nhà xa mà trời lại tối, nên họ không chịu đi nữa. Thế là giáo viên phải ra quân, theo lệnh của “thống soái” Soài.
Làm sao cơm nước no lòng, nhất là ai có lớp dạy ca chiều xong, chỉ ăn qua loa tí chút là phải đi rồi. Nhiều hôm giáo viên đi lang thang khi chiều chưa tắt nắng. Trời thật nóng bức không một bóng cây râm mát, chỉ có con đường nắng loá dài lê thê chạy đến các ấp xa ngút ngàn. Nào có ai nghĩ đến cái khó nhọc của giáo viên. Bà con cũng rất nghèo, lấy gì đãi cho các cô thầy giáo dù là một củ khoai!
Ở đây, cái nghèo có khi chỉ là một nồi chè khoai mỡ, mà cả bọn ăn thật ngon lành. Có một lần vội đi xuống trường, Vân quên mang gạo theo, khiến có một ngày cả bọn bị đói, trưa phải mua hủ tiếu khô dưới quán ăn trừ cơm. Nhưng sau đó anh Soài và Thứ mang gạo đến tiếp tế ngay.
Tình nghĩa ấy làm Vân cảm động vô cùng.
Một hôm chả biết anh Soài đi đâu về mà say rượu ngã nghiêng làm Vân sợ quá. Bỗng dưng nàng thấy đời mỏng manh vô lý, khi nhìn anh lắc lư theo cơn say. Nhưng nhờ đó anh đã bật mở ra nỗi buồn khổ tâm vì lớp bình dân học vụ không tiến bộ được. Anh buồn nên mượn rượu giải sầu. Thấy tội và thương anh cũng vì trách nhiệm và miếng cơm. Điều khiến Vân cảm động vì anh đã nhiều lần chịu đựng nghe những lời đay nghiến của chủ tịch phòng giáo dục, chỉ vì anh thương bọn Vân phải lội sâu xuống các ấp xa kia quá cực nhọc, nhất là Vân mới từ Sài Gòn đến. Tuy Lý cũng ở Sài Gòn nhưng đã quen được khó nhọc này rồi, chỉ có chị Bẩy và Nhàn là giáo viên xã ấp rành rẽ địa thế, thì anh yên lòng.
Trong cơn rượu hành anh Soài đòi bỏ vợ con làm Vân chua chát, thấy thân phận người phụ nữ như món đồ chơi bỏ vào túi, và lấy ra vứt đi lúc nào cũng được.
Rồi tuần sau, anh ấy đãi bọn Vân một chầu cháo vịt của nhà nuôi, thích lắm. Có phải anh muốn xin lỗi vì đã say rượu là điều không đẹp dưới mắt các cô, hay anh muốn các bạn có buổi cơm ngon và những nụ cười vui trong cảnh xã hội lầm than này?
Vân muốn nói với các bạn rằng chính sách này không sáng suốt, vì không nhìn thấy yếu tố chính là nhân dân. Người dân nghèo lại bị chánh quyền CS chèn ép đến đói khổ quá, thì làm sao họ học được? Chao ôi! những bà mẹ quê mùa không cần đọc sách báo, mà chỉ cần đủ ăn mà thôi.
Các bạn cũng ngầm công nhận điều ấy đúng, nhưng không dám nói ra.
Những buổi chiều vàng rảnh rỗi, các bạn rủ Vân lội ruộng xuống chơi nhà chị Tiến và chị Lành. Hai chị trên ba mươi tuổi nên thương các cô giáo trẻ như em mình. Khi miền Nam tan hoang, chồng chị Tiến bỏ đi Mỹ mất, còn chồng chị Lành thì có vợ bé. Hai ông này đều là sỹ quan cấp cao, nên hai chị đau quá chửi cách mạng nhoi trời đất.
Có nhìn thấy cảnh dân quê lam lũ chân lấm tay bùn, nắng cháy da người nơi đây, mới thấy thương họ. Người dân quê kiếm gạo xót con mắt không như dân thành phố. Nhưng bây giờ dân ở thành và quê đều bị đe dọa nạn đói, khi nhà nước bắt nông dân đóng thuế thật cao và cấm chở gạo lên thành. Dân càng đói khổ càng chửi tưng bừng, không sợ ai nữa cả, mặc dù số người này bị công an bắt đi tù nhiều lắm, nhất là ở Sài Gòn, Vân đã hiểu tại sao CS bắt dân quê đói, họ sợ dân sẽ tiếp tế gạo cho người trong bưng, giống như họ trước kia.
***
Rồi Vân cảm thấy mệt mỏi ở những phút buông bảng rời phấn, hò hét học trò.
Buổi sáng vừa nghe tiếng chuông chùa vọng lại, ba đứa tốc chăn dậy, vội vã súc miệng thay áo qua chùa lễ Phật, và trời còn tối mờ, cỏ ướt đẫm sương đêm. Vân vội vàng vuốt mặt, cố mở to mắt nhìn lên chánh điện lẩm nhẩm câu kinh, tiếng còn tiếng mất, mà thèm được ngủ lại giấc còn dang dở.
Buổi cúng sớm vừa xong, tiếng chuông còn vang theo câu kinh nguyện, cả bọn lủi thủi ra về, chợt nàng thấy đời vô vị, nhưng lại nghe lòng nhẹ tênh. Nàng tự hỏi tại sao con người lại ham mê dục vọng nhiều như vậy, và rồi mình sẽ ra sao trên con đường cô độc này?
Một hôm lễ Phật xong xuống nhà ngang, một bác tóc bạc hiền lành hỏi chuyện:
-Lúc đang cúng, mấy cô giáo có nhìn cái cửa kiếng sau chánh điện không?
Cả bọn ngạc nhiên lắc đầu, bà nói tiếp:
-Tui đi cúng mỗi ngày đều đặn hơn mấy cô giáo bên trường, mà hôm nào tui cũng thấy cái bóng trắng đó đứng hoài ở cửa này nè. Tui đi xuống coi thì nó biến mất liền.
Eo ơi! nghe bà nói mà cả bọn nổi da gà, không dám đi cúng. Nhưng rồi vài tuần sau cứ năm giờ sáng nghe tiếng chuông chùa ngân vang gọi dậy, là ba đứa lại rủ nhau đi nữa.
Những buổi hoàng hôn về trên ruộng đồng, Vân rưng rưng lặng ngắm từng sợi tơ buồn vu vơ. Tuổi trẻ đã bịt ngõ nàng nơi này, và đời sống chai lỳ sắp sửa biến nàng thành một con người mới: chững chạc hơn và sẽ lặng lẽ cuốn mất hồn nhiên đi. Ta lớn thật rồi ư?
Buổi tối ngồi nhìn trời đầy sao, trăng đã lên và trong vắt màu vàng sương khói, thật đẹp. Nàng nhớ người thân và người yêu, muốn bưng mặt khóc, mà sao đôi mắt ráo hoảnh. Nàng đã quên anh rồi ư? Nào có thế, tình xa nên tình nhớ, lòng dưng dưng nghe ngọn sóng trùng trùng trở về – ngày anh về còn bao xa?
Vào mùa nắng, thỉnh thoảng dân trong xã thiếu nước uống vì xe nước Sài Gòn không đến, giáo viên phải mua dưa hấu ăn thay uống nước. Những trái dưa hấu nho nhỏ ruột trắng non xèo chả ngon lành gì, nhưng được đầy nước để tạm giải khát, vì ai cũng nghèo như nhau,nhất là những giáo viên ở thành phố.
Hôm Vân ngồi ăn dưa hấu và đàm đạo cùng anh Soài và Thứ, họ kể những kỷ niệm ngày trước thật vui. Vân hỏi về tên Soài của anh, có phải xuất xứ từ nơi này, có con sông lớn Soài Rạp chảy ngang không. Anh Soài ngạc nhiên vui mừng vì có người hiểu đúng ý nghĩa tên của anh, không như mọi người cứ tưởng là tên trái cây. Anh nói thằng em tên Rạp thì còn khổ hơn anh nữa, vì lúc đi học nó bị bạn chọc ghẹo muốn khùng luôn.
Vân nói về những tư tưởng của mình. Chả biết đắc ý thế nào mà anh Soài vui quá, bèn đứng lên quẩy hai thùng thiếc đi gánh nước về cho cả nhóm dùng. Vân, Lý đều ngạc nhiên nhìn theo, mừng reo cười đến đau cả bụng, vì việc này anh chưa làm bao giờ. Anh làm biếng đến chảy nhớt mà hôm ấy bỗng siêng năng, cũng lạ!
Công tác lao động
Mỗi tuần vào ngày thứ năm cả trường phải làm công tác lao động rất vui. Hào thì sâu mà đất ruộng sau khi mưa lại nhầy nhụa dơ bẩn, bọn nhóc phải leo xuống đào đất, móc từng cục chuyền tay nhau để đắp đường đi quanh trường.
Nhìn những đôi tay bé tí xíu ôm từng cục đất to nặng, Vân thương muốn khóc. Nàng chạy theo để giữ quần áo các em và ôm đất, nên chân tay nàng cũng lấm đầy bùn đen. Đến khi cả thầy trò đều mệt và đói mà vẫn còn làm, vì học trò lớp hai của Vân nhất định ở lại làm, cho đến khi các cô thầy về chúng mới chịu về. Thương vô cùng.
Thỉnh thoảng có đi lao động như vậy, Vân thấy thú vị và yêu thôn quê hơn. Nhưng tiêu chuẩn mỗi tuần phải làm thì Vân bướng bỉnh không đi. Nàng chả sợ bạn đồng nghiệp hay ban giám hiệu phê bình gì cả. Vì nàng thương trẻ con bị lao động quá vô lý, hết xuống hào sâu rồi lại xuống ruộng bưng đất lên. Nếu cứ đắp đường đi hoài thì đến lúc chả còn đất đâu mà đắp.
Rồi con đường chung quanh trường càng lúc càng cao để làm gì? Tại sao không xót thương lũ trẻ nghèo mau đói, lấy gì cho chúng ăn sau khi lao động này? Nhưng đó là chỉ thị của phòng giáo dục, lại gặp hiệu trưởng trẻ mới nhận chức nên nhát hơn thỏ đế, muốn các giáo viên phải thi hành dù không có nơi để cho học sinh làm lao động. Vì thế các đồng nghiệp bảo Vân tiểu thơ quá.
Trường học có ít lớp mà học sinh lại quá đông, nên phải chia hai ca sáng chiều. Các giáo viên thay nhau mỗi tuần dạy suốt ngày hay nửa ngày. Tuần nào Vân dạy một buổi, khá rảnh rỗi để làm cơm trưa. Một hôm các bạn bắt được một con cua lột ở ao bên chùa. Nàng xào cua chua ngọt thêm hành tiêu vào, ăn ngon tuyệt cú mèo. Từ đó các bạn gọi nàng là “cô thợ nấu.” Thế thì cái tên tiểu thơ kia có còn không?
Từ từ lớp bình dân học vụ ở đây tổ chức khá tốt hơn ở thành phố nhiều. Các giáo viên đã mở được từ ba đến bốn lớp học. Bọn Vân phải đi qua các ruộng sâu, vào tận các xã ấp để mời từng nhà đi học. Phải năn nỉ họ và bằng mọi cách phải tổ chức cho được. Anh Soài đến trường đi theo các lớp bình dân học vụ mỗi tối nhiều hơn lúc trước.
Có lần bọn Vân dạy xong bỗng trời đổ mưa to, sấm chớp ầm ầm làm đứa nào cũng sợ ríu vào nhau, không còn biết đường về nữa. Thật may lúc ấy anh Soài từ nhà ai xuất hiện, gọi cả đám vào trú mưa, cả bọn mừng quá vào căn nhà ấy. Ôi, thật ấm và rộng, có đèn “manchon” sáng rực. Chủ nhà mời trà nước khiến cả bọn ấm lòng vô cùng. Ở đây, những nhà giàu thường dùng loại đèn manchon này, họ sống cách biệt và kín đáo vì sợ cướp. Sau ngày đổi đời, họ càng rút vào vỏ sò hơn nữa, nên có vài nhà bọn Vân mời đi học hoài họ vẫn từ chối, không cần biết đến thế giới bên ngoài.
Họ sợ là đúng, vì cướp ban đêm là dân nghèo, còn cướp ban ngày là bọn huyện, xã và du kích dựa hơi để kiếm ăn. Ai tin được ai? Nhưng anh Soài lại thân mật được với các nhà giàu này, có nghĩa là anh đã được lòng tin yêu với các bà con trong vùng. Nhờ vậy từ từ công việc của anh và bọn Vân đã có tiến bộ rất nhiều. Anh không còn bị anh tư trưởng phòng giáo dục rầy la nữa.
Đám giỗ- đám cưới
Dân quê rất trọng thầy cô giáo nên hay mời dự đám giỗ nhà họ. Lần đầu được mời, Vân nhớ mãi là trưa hôm thứ bẩy, học trò mời các thầy cô ăn đám giỗ nhà thằng Chín Cu nào đã để ý chị Thảnh. Chị là dân tỉnh Long An, dáng cao gầy hơn Lý nên đẹp và hồn nhiên, các trai làng để ý.
Cũng như các nàng thôn nữ khi đi ngang trường thì cố ý đi thật chậm để nhìn vào tìm chàng Thứ công tử. Vì vậy hôm ấy được dịp cả bọn trêu chị Thảnh cho bằng thích, làm chị thẹn đỏ cả mặt. Vân cũng thích đi cho biết đám giỗ nhà quê, nhất là ai cũng muốn ăn một mách cho đã, vì mấy ngày phải nhịn thèm.
Trưa hôm ấy dạy xong, cả bọn hùn nhau mua một ổ bánh bông lan làm quà, rồi sáu tên kéo nhau đi. Trời trưa nắng mà đường xa ngút ngàn, qua mấy trăm ô ruộng và hai cái cầu khỉ cheo leo mới đến nhà thằng Chín Cu. Đến trước cổng nhà đã thấy ba đứa học trò chạy ra đón mừng thật ngoan, làm Vân cảm động.
Nhưng vào đến bàn ăn nàng mới chán chường, vì ba ông chủ nhà ra đón là ba ông nhậu, phần đông đàn ông ở đây đa số là sâu rượu. Họ rất thích nói chữ nho và văn chương nghe buồn cười, nhưng nghe quen thấy cũng hay hay. Cũng như cả bọn rất khó chịu, vì thói quen của dân nhậu là cố ép khách uống rượu, khiến Vân lo sẽ ép đến mình. Nhưng rồi các cô được tha còn các thầy ngồi bàn trên, bị ép uống rượu tơi bời, nhất là Thứ không quen uống, anh ta nhăn mặt đau khổ như khỉ ăn ớt, làm bà con ngồi dưới này cười mãi. Buổi ăn khá vui, các cô ngồi bàn dưới tha hồ ăn ngon, nhờ các bà tiếp khách rất chân thành hơn dân thành phố, chỉ tiếc là các món ăn họ làm có mùi tanh tanh, có thể vì thiếu nước sạch để rửa chăng?
Lúc trở về thì” ngựa phi ngựa phi đường xa” và nắng loá cháy đến mờ cả mắt, vì tất cả cái nóng một ngày dồn hết vào cuối chiều. Cả đám mệt mỏi lếch thếch về trường, và hẹn nhau sẽ không bao giờ đi ăn đám giỗ nhà ai nữa.
Thế nhưng không giỗ thì cưới. Chị Bẩy và anh Đức đưa thiệp mời cả trường dự đám cưới họ. Anh Đức không bị đi học tập cải tạo nhờ anh là trung sĩ, nên chỉ học vài ngày thôi. Nét mặt anh buồn buồn như mọi anh lính thất trận bị về quê làm ruộng. Rồi đời sẽ ra sao?
Anh Đức cất một căn nhà gỗ khá rộng rãi, chung quanh có vườn cây, cách trường không xa để chị Bẩy dễ đi dạy. Ai đi ngang nhà anh cũng ngắm nhìn, vì đúng là mái nhà tranh hai quả tim vàng của chuyện tình đến hồi kết thúc. Mối tình của anh chị hạnh phúc êm đềm vì là bạn chung trường từ ngày còn nhỏ.
Nhưng đến gần ngày cưới thì nhà trai dời ngày lại, làm chị Bẩy quê, nên giận khóc. Vân theo chị nói đùa cho chị vui. Chị biết các bạn đều mua quà cưới cả rồi nên năn nỉ mua lại hết, thật tội cho chị. Vân bảo các bạn cứ gửi quà lại, chờ khi có đám cưới sẽ mang tặng ,nên chị yên tâm. Chị nói tại chị tuổi dần nên họ làm eo như vậy. Vân không tin chuyện dị đoan, cuộc đời mình tùy theo cách mình sống. Vân nói nếu chị không tin thì sẽ không bị lo lắng gì cả, còn ngược lại đã tin thì phải kiêng cữ là tốt nhất. Chị ừ, vì gia đình chị sống theo cỗ tục muôn đời, rất khó thay đổi.
Như để xin lỗi, chị mời các bạn đến nhà ba má chị chơi một ngày, để đãi một màn cháo vịt cùng các món ăn cơm. Hôm ấy sáu đứa kéo nhau đến nhà chị thật vui. Nhà ba má chị rộng rãi rất thoải mái và các anh em rất dễ thương, thật thà. Má chị nấu cháo vịt và có canh khổ qua vịt nữa. Bà bầm luôn cả xương vịt thật nhuyễn để dồn vào trái khổ qua. Bà làm rất khéo và ngon, lần đầu Vân được thưởng thức món ăn quê mùa mộc mạc này. Ăn xong no quá, nhưng lại ra vườn hái tầm ruột ngọt làm một chầu nữa, thật vui.
Má chị là người đàn bà giỏi, đảm đang. Bà thức khuya dậy sớm để nấu rượu đi bán, nên nhà khá giả. Mặc dù cực nhọc đi khuya về muộn, và bị căng thẳng vì bán rượu chui, nhưng bà rất khoẻ và vui vẻ hiếu khách. Ra về cả bọn cám ơn gia đình chị Bẩy đã cho một ngày vui, cảm động.
Hôm sau anh Đức lại đãi một chầu cary và cháo vịt nữa, ở nhà mới của anh chị. Cả bọn được dịp vào xem căn nhà lý tưởng ấy. Nhà rộng sạch, nền tráng ciment láng rất đẹp, nhất là gió từ ruộng lồng lộng thổi vào mát mẻ suốt ngày. Tuy ở quê nhưng anh chị biết chọn tủ bàn rất mode, ai cũng khen. Hôm ấy cả bọn lại ăn tưng bừng cho bỏ những ngày bị ăn kham khổ. Ở đây họ thường nấu cháo vịt vì tiện lợi, cây nhà lá vườn.
Có lần nhà anh Soài có đám giỗ, anh mang bánh ít, bánh tét, thịt gà và cháo vịt đến trường cho cả bọn dùng. Anh ấy thương Vân như em trong nhà vì anh không có em gái. Có những buổi tối Vân và anh ngồi nói chuyện rất lâu. Vân học hỏi chuyện sống đời của anh, tâm hồn anh có chiều sâu khác mọi người. Anh thường trầm ngâm buồn khi thấy cảnh đời đổi thay này.
Vân bảo nàng sẽ giữ thuyết “trung dung” này đến suốt đời, vì đó là con đường tốt nhất. Anh đồng ý, và hy vọng người phối ngẫu của Vân sau này sẽ như vậy. Nàng bảo không hy vọng có người giống như mình đâu, khi ấy sẽ sống độc thân là tốt hơn.
Hôm ấy anh muốn xem bói tuổi cha mẹ và con cái cho bọn Vân, nàng cười không tin chuyện này, nhưng anh bảo bói khoa học, không phải bói “thầy rùa” đâu. Thế nên khi anh xem cho Lý và Vân thì hữu duyên, rất tốt nhưng đến Nhàn quả lại rất xấu, “vô duyên,” làm nó ngồi buồn thẫn thờ.
(Kỳ tới: Bước xuống cuộc đời – đồng nghiệp mới và đám cưới quê)




























