Nhiều nhân vật chính trị, truyền thông tại sao không biết nhiều điều khi nói về Quân Ðội VNCH. Chẳng lẽ nào họ không đủ khả năng, trình độ để hiểu biết, hay mang đầy ác ý trong đầu. Rồi đến chiến trường An Lộc, Tỉnh Bình Long. Ở Hòa Hội Paris, Lê Ðức Thọ và Xuân Thủy, Ủy Viên Bộ Chính Trị Trung Ương Ðảng cộng sản, ra mặt lấn áp Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger trong các buổi mật đàm qua thế mạnh của quân cộng sản tại Miền Nam, trong khi Hoa Kỳ muốn rút chân cho mau khỏi “vũng lầy kinh khủng” này. Ðại Tướng Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng Quốc Phòng của cộng sản, người hùng Ðiện Biên Phủ, tuyên bố trên đài phát thanh Hà Nội “Nhân dân Việt Nam đã đánh gục 3 đời tổng thống Hoa Kỳ, và sẽ đập tan chính quyền Nixon bằng một cuộc chiến thắng hoàn toàn.”
Với cái khí thế như vậy, xe tăng T-54 của cộng sản đã tràn ngập, làm chủ tình hình thị xã An Lộc, dẫn theo sau những đơn vị bộ binh thiện chiến, danh tiếng nhất của cộng sản Hà Nội, sau khi những trận bão lửa pháo binh đã quét dọn sạch sẽ, không để lại những gì có thể sống sót. Các chiến sĩ Sư Ðoàn 5 Bộ Binh VNCH cùng một số đơn vị bạn còn lại của địa phương Bình Long đã chiến đấu vô cùng anh dũng, ác liệt, giữ từng tấc đất, từng góc phố, ngõ hẻm để có chỗ đứng hay nằm mà chiến đấu vì ngưng chiến đấu tức là chết.
Mặt trận An Lộc làm rung động thế giới, làm rối loạn không khí hòa đàm tại Paris vốn đã nghiêng hẳn thế thuận lợi về phía cộng sản. Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh cũng như Hà Nội muốn An Lộc phải thất thủ kinh hoàng như Ðiện Biên Phủ ngày nào. Những tay cá độ quốc tế đã dám đánh 100 ăn 1 là An Lộc sẽ thất thủ để cho cộng sản tiến quân về Sài Gòn, đập tan chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ngay trong năm 1972. Tướng ba sao Vanuxem, tư lệnh quân đội Pháp tại Bắc Phi, người đã từng là Tư lệnh quân khu miền Nam Bắc Việt “đóng tại Nam Định hồi năm 1954, trả lời phỏng vấn của phóng viên báo chí: Quân Đội VNCH không thể nào giữ nổi An Lộc.”
Chắc là ông tướng ba sao của Pháp Vanuxem không quên nổi cái cảnh pháo binh các loại của cộng sản đã dội xuống Điện Biên Phủ như mưa bão suốt ngày đêm, làm tê liệt hoàn toàn các giàn trọng pháo hùng hậu của Pháp cho đến nỗi Ðại Tá Pirotti, chỉ huy trưởng pháo binh của Pháp tại chiến trường này quá thất vọng và khủng khiếp, phải mở chốt lựu đạn mà tự sát.
Có lẽ Tướng Vanuxem chưa quên được cái cảnh những sư đoàn cộng sản cuồng tín, đông như kiến cỏ, theo chiến thuật “Biển Người” của Thống Chế Lâm Bưu, nguyên soái Hồng Quân Trung Quốc, tràn qua các bãi mìn, đạp nát các công sự phòng thủ, các hàng rào kẽm gai chằng chịt, tràn xuống các giao thông hào, đạp lên xác chết của lính Pháp, Bắc Phi và cả quân cộng sản, phối hợp với quân cộng sản từ dưới đất chui lên từ các đường hầm đã được máy móc, cơ giới của Trung Quốc đào bới ngày đêm trong lúc pháo binh hỏa tiễn Trung Cộng liên tục nổ rầm trời.
Chắc Tướng Vanuxem liên tưởng đến cái cảnh Tư Lệnh chiến trường Ðiện Biên Phủ, Tướng De Castries, mặt mũi hốc hác, bị quân cộng sản bắt sống ngay tại căn hầm Chỉ huy, cùng với toàn thể Sĩ Quan Bộ Tham Mưu của Ông để rồi chiến tranh Việt-Pháp kể như chấm dứt từ chỗ này, mà phần thất bại tất nhiên thuộc về phía người Pháp.
Tướng Vanuxem tin chắc là Quân Ðội VNCH không thể nào giữ nổi An Lộc một khi Hà Nội đã quyết định biến An Lộc thành một thứ Ðiện Biên Phủ thứ 2, để giành thế chủ động trên bàn Hội Nghị tại Paris, một khi cộng sản Hà Nội có Liên Xô và Trung Quốc đứng sau lưng, nhất định bắt người Mỹ phải “nhắm mắt lại mà ký vào Hiệp Ðịnh Paris” như cộng sản đã bắt người Pháp phải làm như thế ở Hội Nghị Geneva 1954.
An Lộc đã bị thế giới coi như đã bị mất vào tay cộng sản. Thế mà, khi Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù, hợp lực với Biệt Ðộng Quân và một số đơn vị Bộ Binh VNCH kéo tới đánh những trận phản công sấm chớp, lở đất long trời thì xe tăng T-54 Xô Viết, cũng như Bộ Binh cộng sản từng làm mưa làm gió trước đó trên vùng đất An Lộc tan hoang, trơ trụi, đành phải mở đường máu mà tháo chạy mặc dù lệnh của Hà Nội phải giữ An Lộc đã chiếm bằng mọi giá.
An Lộc vẫn còn đó, không thất thủ như Ðiện Biên Phủ năm 1954. Cả thế giới kinh ngạc. Tướng ba sao của Pháp Vanuxem cùng dân cá độ quốc tế đã thua đậm trong keo này. Tướng Nguyễn Văn Thiệu, tổng thống Ðệ Nhị VNCH, bỗng dưng có được giờ phút vinh quang và oai hùng nhất trong cuộc đời binh nghiệp cũng như chính trị của ông: đáp trực thăng xuống ngay chiến trường An Lộc giữa tiếng hoan hô vang dậy không ngớt của của các chiến sĩ VNCH vừa chiếm lại An Lộc, trong khi tiếng đại bác của hai bên, tiếng hỏa tiễn 122 ly của Trung Cộng vẫn còn nổ vang quanh vùng, và An Lộc vẫn còn mù mịt, khét lẹt mùi lửa đạn .
Ðó! Tinh thần chiến đấu của Quân Ðội VNCH là như thế đấy! Và còn biết bao nhiêu trận đánh lẫy lừng khác trên khắp 4 Vùng Chiến Thuật. Một bài báo có hạn, làm sao kể hết! Năm 1975, cộng sản đánh chiếm Ban Mê Thuột, cũng chẳng khác gì cộng sản đánh chiếm Huế năm 1968, đánh chiếm Quảng Trị, kiểm soát An Lộc năm 1972 bao nhiêu. Vậy thì khi Ban Mê Thuột mới rơi vào tay giặc trong sự bất ngờ, tại sao ông tổng thống của phe ta lại hạ lệnh cho Tướng Phạm Văn Phú phải bỏ ngay Quân Khu 2, cho Tướng Ngô Quang Trưởng phải bỏ Quân Khu I, trong khi hai tướng tư lệnh này đang có trong tay 6 Sư Ðoàn Bộ Binh, hầu hết đều thiện chiến, chưa kể đến các Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh, mấy chục Tiểu Ðoàn Ðịa Phương Quân, bao nhiêu là đơn vị yểm trợ chiến đấu, đó là chưa kể đến hỏa lực yểm trợ của Hải Quân, Không Quân, lực lượng tổng trừ bị của Nhẩy Dù và Thủy Quân Lục Chiến, tất cả đều đang sẵn sàng chiến đấu vì chỉ có chiến đấu hay là chết mà thôi.
Ông tổng thống của phe ta hạ lệnh rút bỏ hai Quân Khu cửa ngõ, địa đầu của Nam Việt Nam như vậy để làm gì? Có nhận lệnh từ đâu không? Hay chỉ vì quá kinh hoàng trước thái độ “tháo chạy” của ông bạn đồng minh khổng lồ, mà quyết định vội vã để tạo nên tình trạng… cũng tháo chạy một cách hoảng loạn, khiến cho lính cũng chết mà dân cũng chết luôn, trong cái thế để cho cộng sản tàn sát quân dân VNCH một cách thê thảm, nhục nhã chưa từng thấy.
Nên nhớ rằng, khi gặp sự quyết chiến của Sư Ðoàn 18 Bộ Binh VNCH, với sự tăng cường của một số đơn vị bạn, mà Bộ Tư Lệnh Hành Quân của Tướng cộng sản Văn Tiến Dũng đã phải tung ra hai sư đoàn thiện chiến để hòng lấy số đông và nhân đà thắng lợi, đánh tan sư đoàn 18 Bộ Binh, dưới sự chỉ huy của tướng trẻ Lê Minh Ðảo, nhưng không thắng nổi. Sau cùng Văn Tiến Dũng phải tung thêm hai Sư Ðoàn nữa vào mặt trận này, là bốn sư đoàn tất cả, lấy bốn đánh một, trong thế thuận lợi về quân sự cũng như tinh thần quân sĩ đang lên. Vậy mà Sư Ðoàn 18 Bộ Binh VNCH chỉ chịu rời bỏ trận tuyến khi có lệnh của tướng Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 kiêm Vùng 3 Chiến Thuật. Vị Tướng Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 của VNCH không muốn trông thấy Sư Ðoàn 18 Bộ Binh VNCH anh dũng, kiên cường bị tiêu diệt trước thế trận bất quân bình, địch đông gấp bốn và có thể tăng gấp năm, gấp sáu nếu cần, vũ khí đạn được, xe tăng, pháo binh được cộng sản quốc tế đổ vào như mưa bão, quyết đánh chiếm Sài Gòn như đã định.
Tướng Homer Smith, tùy viên Quốc Phòng Mỹ tại Sài Gòn, ngày 13 Tháng Tư 1975, gửi một điện văn cho Tướng George S. Brown, tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham Mưu Hoa Kỳ tại Hoa Thịnh Đốn, ca ngợi ý chí và tinh thần chiến đấu dũng cảm tuyệt vời của Quân Ðội VNCH dù những bất lợi đang đè nặng trên vai họ. Sau năm ngày theo dõi cuộc chiến An Lộc, Tướng Smith đã nói: “Sự chiến đấu anh hùng và dũng cảm của quân đội Nam Việt Nam, đã cho người ta thấy rõ tinh thần và khả năng chiến đấu của những người lính VNCH này giỏi hơn đối phương của họ rất nhiều…” Trong lúc đó tại Quân Khu 4, ở miền Tây, Tướng Tư Lệnh Nguyễn Khoa Nam, một Tướng giỏi, với Tướng Tư Lệnh Phó Lê Văn Hưng, người hùng tử thủ An Lộc mấy năm trước, có trong tay ba sư đoàn Bộ Binh thiện chiến và các lực lượng Biệt Ðộng Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh, Ðịa phương quân yểm trợ chiến đấu hùng hậu, tinh thần rất cao, sẵn sàng chờ địch tiến đánh quân khu này.
Khi Tổng Thống cuối mùa Dương Văn Minh, với tư cách tổng tư lệnh lúc đó, bị chỉ huy trực tiếp bởi Sư Phụ Thích Trí Quang và ngay cả từ Hà Nội qua trung gian của người em ruột Dương Văn Minh là sĩ quan cao cấp cộng sản Dương Văn Nhựt (đã liên lạc với Dương Văn Minh từ hồi 1956 ) hạ lệnh cho Quân Ðội VNCH buông súng đầu hàng cộng sản vô điều kiện, để bàn giao cho cộng sản, hi vọng kiếm cho bản thân và bè lũ, phe phái, chỗ đứng chỗ ngồi mà cộng sản sẽ dành cho trong chính quyền “Cách Mạng giải phóng,” thì Tướng Nguyễn Khoa Nam đã họp các sĩ quan có trách nhiệm chỉ huy dưới quyền, và ra lệnh: anh em tùy nghi lo liệu về phần mình, trước tình thế chúng ta bị bắt buộc phải đầu hàng. Kế hoạch chiến đấu để tự cứu mình và bảo vệ vùng lãnh thổ trách nhiệm của chúng ta đã không thi hành được như anh em đã biết. Sau đó, Tướng Nguyễn Khoa Nam, trong bộ quân phục tác chiến mũ sắt hai lớp, vào Văn Phòng Tư Lệnh, ngồi xuống ghế của mình, chắc là để nhìn lại lần cuối tấm bản đồ Tổ Quốc trên tường, nhìn lá cờ nhỏ nền đỏ với hai ngôi sao trắng, tượng trưng cho uy quyền của một tướng lãnh chỉ huy, để trên bàn rồi rút súng bắn vào đầu tự sát. Chắc chắn là trước khi bóp cò cho viên đạn xuyên qua đầu, vị tướng đáng kính phục này đã nói những gì với Tổ Quốc, với đồng bào, với chiến hữu của ông.
Tướng Lê Văn Hưng, tư lệnh phó Quân Ðoàn, anh hùng tử thủ An Lộc mấy năm trước, trước đó một lúc, trở về căn cứ chỉ huy phụ, nói với người vợ thân yêu: “Em ở lại nuôi con, anh phải ra đi vì thân làm tướng không thể sống nhục như thế này…” Người vợ thân yêu nói với ông “Anh Hưng! Cho em chết theo với! Tất cả chúng ta và các con cùng chết với nhau!” thì Tướng Hưng đã thuyết phục người vợ: “Không được! Cha mẹ không có quyền giết con. Em phải sống để nuôi dạy con nên người để trả thù nhà và cùng với thế hệ mai sau lấy lại Ðất Nước này! Em phải sống, dù phải chấp nhận hi sinh, khó khăn, gian khổ.” Người vợ thương yêu và can trường của vị tướng anh hùng này nói trong nước mắt: “Em nghe lời mình với hai điều kiện: “Nếu cộng sản bắt em phải xa lìa các con hay chúng làm nhục em thì em có quyền tự sát?” Tướng Hưng bằng lòng, nắm lấy tay vợ rồi chào từ biệt vợ con cùng một vài sĩ quan, binh sĩ đã có mặt từ trước tại đây để dự định liên lạc với các đơn vị thi hành kế hoạch chiến đấu cứu mình, cứu Quân Khu 4, của hai Tướng Nam và Hưng, rồi vào phòng riêng, gạt đi lời yêu cầu của người vợ xin được chứng kiến tận mắt sự ra đi của chồng.
Tướng Hưng đóng cửa lại, và một phát súng nổ. Tướng Lê Văn Hưng đã ra đi vĩnh viễn cùng với Tướng Tư Lệnh Nguyễn Khoa Nam, để lại cho lịch sử dân tộc Việt Nam những tấm gương bất khuất sáng ngời, như những tấm gương bất khuất của cha ông ngày trước, của những thời đại Lý Thường Kiệt phá quân ngoại xâm Nhà Tống, Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn đại phá quân Mông Cổ…
Hai Tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng đã cùng một số tướng lãnh khác như Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ và nhiều sĩ quan cao cấp khác của Quân Ðội VNCH đã chết theo vận nước, chớ không chịu đầu hàng hay để giặc bắt. Quân đội của quốc gia nào có những tướng lãnh anh hùng và can đảm như thế hay không?
Một số sĩ quan cao cấp, cả những cựu quân nhân bình thường của Hoa Kỳ, từng tham chiến tại Việt Nam, không muốn dư luận cũng coi mình như những kẻ khác không biết gì về cuộc chiến Việt Nam, cuộc chiến kỳ lạ này, về sau đã lên tiếng trên các phương tiện truyền thông đa dạng ngày nay, nói ra sự thật là: Quân Ðội VNCH nói chung, đã chiến đấu rất anh dũng và kiên cường, mặc dầu họ luôn luôn phải chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, không được chiến đấu trong những điều kiện đầy đủ, dễ dàng như quân đội Hoa Kỳ chúng ta tại Việt Nam. Ðúng như thế! Họ còn nêu rõ những điều cần thiết để cho dư luận hiểu cuộc chiến một cách đơn giản nhưng rõ ràng đúng với tinh thần trong sáng, ngay thẳng, minh bạch của những quân nhân của đất nước Hoa Kỳ luôn được coi là vĩ đại trong con mắt của thế giới loài người:
-Quân Ðội Hoa Kỳ chỉ chiến đấu khi nắm chắc được yếu tố “vượt trội về hỏa lực.” Quân Đội VNCH phải chiến đấu trong mọi trường hợp cần thiết.
-Quân đội Hoa Kỳ chỉ chiến đấu tại Việt Nam trong thời gian ngắn hạn rồi thay nhau về nước. Như thế không bị dồn vào cái thế mệt mỏi căng thẳng quá độ, thường trực về thể chất cũng như tinh thần. Còn Quân đội VNCH thì ngược lại, phải chiến đấu liên tục, không ngừng nghỉ. Sức chịu đựng của người chiến binh VNCH nó khủng khiếp đến thế nào?
-Trong khi chiến đấu cũng như lúc đóng quân trong đồn lũy, người chiến binh Hoa Kỳ luôn luôn được bảo vệ bằng những phương tiện chiến tranh dồi dào, tối tân, hiện đại nhất, cả về tấn công, phòng thủ cũng như yểm trợ. Còn người chiến binh VNCH làm sao có được như vậy! Cái mạng sống của người chiến binh Việt Nam cũng vô cùng mỏng manh, hay nói rõ hơn là dễ chết lắm.
Ðiểm nữa, cũng ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần, thể chất, tâm lý của người chiến binh Việt Nam, là trong khi mình xả thân chiến đấu bảo vệ đất nước, bảo vệ mạng sống của chính mình thì lúc đó gia đình, những người thân yêu phải sống ra sao? Liệu có đang kẹt trong vùng lửa đạn, chết chóc hay không? Về điểm này, người chiến binh Hoa Kỳ khỏe hơn là cái chắc, tinh thần ổn định, thoải mái hơn rõ ràng.
Bây giờ, nếu đặt người chiến binh của các cường quốc Âu-Mỹ vào vị trí, hoàn cảnh chiến đấu khó khăn, thiếu thốn, khắc nghiệt của người chiến binh VNCH, thử hỏi liệu những người chiến binh ấy có thể chiến đấu được như họ hay không? Chịu được bao lâu? Chính Phủ, Quốc Hội và nhân dân các quốc gia đó chịu được mấy tháng, mấy năm?
Câu trả lời xin dành cho những nhà viết sử chân chính, cho những sĩ quan và quân nhân Hoa Kỳ từng chiến đấu anh dũng, can trường bên cạnh những người bạn chiến binh VNCH của họ từ các chiến trường Khe Sanh, Ðắc-Tô, Pleiku, Kontum, Ðồng Xoài, Bình Giả, Củ Chi, cho đến các chiến trường vùng đồng bằng sông Cửu Long, điểm tận cùng của Ðất Nước Việt Nam.
-HẾT-
***
Tài liệu tham khảo:
-The Death of a Nation. – John A. Stormer. – Liberty Bell Press. – Missouri – 1978.
-The World Almanac of The Vietnam War -John S. Bowman (General Editor). – Bison Books Corp, NewYork.-1985.
-Vietnam – The History & The Tactics.- Ashley Brown & Adrian Gilbert.- Orbis Publishing Limited, London –1982.
-Kennedy. – Theodore Sorensen. – Harper & Row . New York – 1965.
-Henry Kissinger’s Diplomacy. – Simon & Schuster .- New York, 1994.
-A Book of U.S. Presidents – George Sullivan – Scholastic Incorporation, New York – 1984.