Trên dải đất miền Nam, từ Quảng Trị tới Cà Mau, có tới khoảng 50 Nghĩa Trang Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Nay hầu hết đã bị xâm chiếm, giải tỏa hoặc đang trong tình trạng hoang hóa.
May mắn là vẫn còn dăm ba khu còn giữ nguyên vẹn hình hài, dù cũng đã lắm phen trải qua cuộc dâu bể. Biểu trưng cụ thể, là Nghĩa Trang Quân Đội tại Biên Hòa, có qui mô lớn với hàng vạn ngôi mộ chiến sĩ tử vong, thuộc mọi quân binh chủng, mọi cấp bậc từ binh nhì tới trung tướng… đã bị xâm hại sớm nhất.
Bắt đầu từ lúc bức tượng “Thương Tiếc” phía xa lộ Biên Hòa, ngay đầu lối dẫn vào nghĩa trang, bị “bên thắng cuộc” hạ lật nhào; tiếp theo là các chuyện bôi bẩn, đập phá các bia mộ; bắn vào hình các di ảnh, nhiều năm cản trở không cho thân nhân lui tới viếng thăm. Chỉ một số rất ít nhanh chóng vội vã, thậm chí lén lút vào bốc mộ cha, anh mình đưa về quê hương an táng, khói hương..
Những nơi còn có tên tuổi
Ở Huế, có một khu Nghĩa Trang Quân Đội VNCH còn khá nguyên vẹn, gần như hoàn toàn không có dấu hiệu bị xâm hại, lấn chiếm từ cả phía chính quyền cộng sản tới người dân. Khu nghĩa trang này chỉ cách trung tâm thành phố Huế khoảng 6 km, nằm trên địa bàn quận Thuận Hóa, rất gần với khu lăng mộ Vua Hiệp Hòa, khu di tích Chín Hầm (được cho là nơi ông Ngô Đình Cẩn giam giữ các cán bộ cộng sản trước năm 1963).
Tại đây, có ba tiểu khu được quy hoạch trên tổng diện tích khoảng 1,200 m2, nằm đối diện nhau trên trục đường Tam Thai, khu rộng nhất hơn 800 m2, là nơi an táng cho trên dưới 1,000 tử sĩ, trong đó có một ngôi mộ nữ tử sĩ (?) do chồng lập mộ.
Nghĩa trang này hiện do Ban Quản Lý Nghĩa Trang Thành Phố Huế quản lý, đặt tên là Nghĩa Trang Tăng Bạt Hổ. Người dân trong vùng cho biết tên trước đây là Nghĩa Trang Mang Cá. Cả ba khu đều có tường thành bao bọc, và có nhà bia được xây dựng kiên cố, có hoa văn họa tiết và đều được ghi nhận là: “Cô Mộ Chiến sĩ Trận vong- tái lập năm 2019.”
“Cô Mộ” nghĩa là những ngôi mộ cô đơn không người chăm sóc. Vậy ai đã đứng ra tái lập và giữ gìn?

Cách đây vài năm, tôi đã có dịp tới thăm, và thật ngạc nhiên khi hàng hàng lớp lớp các mộ phần đều tươm tất, ngay hàng thẳng lối, không bị cây cỏ chiếm chỗ mọc chen. Chỉ một số rất ít mộ phần chắc đã được thân nhân trùng tu, nên có vẻ dáng dấp to lớn hơn so với các đồng đội, hoặc có nấm mộ mang hình đóa sen tròn như một số vùng khu vực miền Trung; còn lại đều nằm trong khuôn hình chữ nhật 1.5 x 2.0 mét, bia mộ được thiết kế chung một mẫu có một góc vát chéo, một số bia mộ mang hình bán thân, mặc quân phục có đầu và hai tay. Chắc phần lớn chiến sĩ trận vong đang an nghỉ nơi đây thuộc mọi quân binh chủng, kể cả địa phương quân đã tử trận từ các chiến trường Quảng Trị, Thừa Thiên, Huế được chôn cất từ hàng mấy chục năm trước cho tới đầu năm 1975.
Cũng chỉ cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột, thủ phủ của tỉnh Đắk Lắk hiện nay, trên dưới 1km, nhưng nghĩa trang quân đội tại đây, nơi từng an nghỉ của khoảng hai ngàn chiến sĩ Quân Lực VNCH, phần lớn thuộc sư đoàn 23 bộ binh, lại không còn được tử tế, sạch sẽ, nghiêm cẩn như tại Huế. Nơi đây đã bị chiếm dụng làm vườn tược của một số hộ dân. Cũng đã có một số được cải táng, di dời, nhưng phần lớn mộ phần đã bị hư hỏng, xô lệch, nhất là các mộ bia bị nứt vỡ làm mất đi một phần bia chí.
Gần đây, đã có những cuộc khảo cứu, tìm kiếm và ghi chép lại tên tuổi của các tử sĩ nơi đây, do một hai thanh niên công giáo trong vùng thực hiện, đã có khoảng gần ngàn trường hợp được ghi nhận tương đối khá đầy đủ cả quê quán, số quân… và đã có hàng chục trường hợp được thân nhân nhận diện, cải táng.
Cách bờ biển Quy Hòa (Ghềnh Ráng, Quy Nhơn) có Trại Phong Cùi rất nổi tiếng trước đây, cũng là nơi an nghỉ của thi sĩ Hàn Mặc Tử, chỉ trên dưới nửa cây số; nằm trên một thửa đất khá bằng phẳng dưới chân một thung lũng có những ngọn núi bao quanh, là một nghĩa trang quân đội, nơi an táng hàng ngàn chiến sĩ thuộc Sư đoàn 22 bộ binh, tử trận trong thời gian 1969-1974.
Thực khó khăn để tìm tới nghĩa trang này, vì đã trở nên hoang hóa, cả khu đã như bị biến thành rừng cây. Dân lấn đất không chỉ làm nhà ở, mà còn trồng phi lao, bạch đàn. Vào mùa khai thác cây, cành lá, vỏ các loại cây chất đống phủ đầy trên các lối nhỏ và lấp kín các mộ phần ngày xưa vốn đã bị thời gian và mưa gió xâm hại, bào mòn. Các vị trí nhà chung sự, nhà tưởng niệm trước đây nay chẳng ai nhận diện được. Bờ thành bao bọc chung quanh cũng đã bị san thấp xuống làm thành con đường, chắc để thuận lợi cho các loại xe ra vào vận chuyển gỗ. Về phía Tây của nghĩa trang có một ngôi chùa nhỏ, và phía đối diện của chùa còn có được một khu khá nguyên vẹn, không có dấu hiệu bị xâm hại. Thời gian qua cũng có hàng trăm người được thân nhân cải táng, các huyệt mộ cũ loang lổ khắp nơi, vùi cả những bia mộ của các mộ phần bên cạnh. Giờ có chuyển các bia mộ này lên cũng khó lòng đặt lại trúng mộ cũ.
Những năm qua cũng xuất hiện các nhóm thiện nguyện tìm đến đây hương khói, sưởi ấm anh linh các tử sĩ còn nằm tại chỗ, lâu năm vắng bóng người thân. Những nhóm người này cố công phục dựng, sơn viết lại tên tuổi trên mộ chí lâu năm đã phai bạt, tạo điều kiện thuận lợi dễ dàng cho thân nhân nếu trở lại kiếm tìm cha ông.
Những mộ phần tập thể vô danh
Vào những ngày cuối Tháng Tư năm 1975, có nhiều tử sĩ từ các chiến trường được chuyển về Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa chờ hoàn tất chung sự, một số khác từ Sài Gòn và vùng phụ cận cũng được chuyển tới. Hầu hết còn nằm trong phòng lạnh, trên băng ca cứu thương… chưa kịp an táng theo lễ nghi quân cách thì Sài Gòn sụp đổ.
Những người lính phục vụ tại đây cũng nhanh chóng rút về với gia đình sau một lần chào vĩnh biệt. Chỉ còn sót lại vài ba người phụ trách chung sự. Có lẽ, đó chính là những người đã tiếp nhận thêm xác của những người lính thuộc quân chủng Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến cuối cùng tử trận, được đâu đó chất vội trên mấy chiếc GMC chở vào nghĩa trang. Không còn ai trợ lực, nên tất cả có đến hơn 300 tử sĩ đủ các cấp bậc, thuộc các đơn vị, đã phải chôn cất vội vàng trong cùng một huyệt.
Đây đúng là ngôi mộ tập thể, và vô danh lớn nhất của quân đội VNCH trong lịch sử.
Gọi là vô danh, chắc hẳn là không đúng, vì những người được chôn trong hố chôn tập thể này đều còn mang trên mình tấm thẻ bài căn cước quân nhân, hoặc những thẻ chuyển thương từ chiến trường về quân y viện trước lúc từ trần. Tất cả đều có tuổi tên, nhưng trong hoàn cảnh đặc biệt nên không ai nghĩ tới, hoặc không có điều kiện để ghi chép lại.
Vẫn còn có những cuộc kiếm tìm trong hy vọng và thất vọng. Điều an ủi cho những người nằm xuống này là chung quanh họ, gần gũi họ suốt 50 năm qua là những người đã cùng lý tưởng, cùng sống chết cho khát vọng tự do, và họ cũng đang rất gần gũi với bao nhiêu bậc đàn anh đã hy sinh trước đó. Bởi theo ghi nhận, ngôi mộ tập thể này nằm ngay trong khuôn viên Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, phía sau khu vực nhà xác trước đây; nay nằm sau lưng trường Cao Đẳng Công Nghệ Đồng An (Lái Thiêu, Bình Dương).
Từ năm 1988, khi khu nghĩa trang này được phía bộ đội Trung Đoàn Gia Định trao việc quản lý cho tỉnh Bình Dương và gọi là nghĩa trang nhân dân thì việc qua lại tương đối dễ dàng hơn, nên nhiều ngôi mộ được người dân hương khói, dâng cúng hoa trái gần như quanh năm suốt tháng; đặc biệt được một chủ doanh nghiệp có cơ sở sản xuất kinh doanh gần đó, là người ngoại quốc, cắt cử công nhân chăm sóc sạch đẹp hàng ngày.
Khu vực giáp với bờ biển Thuận An, sát Phá Tam Giang (Huế) cũng ghi nhận có 2 khu mộ của những người lính VNCH do dân cư tại đây tạo lập, mỗi khu chỉ trên dưới chục người, nơi nhiều nhất lên tới 45 người. Có khu chôn cất tập thể, có khu chôn riêng lẻ từng tử sĩ, chỉ có điều là hầu hết vô danh.
Các chiến sĩ này, theo giới quan sát nhận định, hầu hết thuộc binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, hy sinh khi rút quân từ Huế ra Thuận An để lui vào bảo vệ trận tuyến phía Nam. Họ bị chôn trong lòng biển, trôi dạt vào bờ nằm sâu trong bùn cát. Qua thời gian, do bờ biển bị xâm thực, một số thi hài lộ diện được dân cư phát hiện, có người toàn thây, có người chỉ còn một số chi thể, tất cả đều được đưa lên chôn cất; nhưng cũng chỉ một thời gian ngắn, họ lại phải di dời lần nữa vào cách biển xa tới vài trăm mét.
Một “cô mộ tập thể” khá lớn, được bà con ở đây tự quyên góp xây dựng, đặt miếu thờ “liệt vị cô hồn” từ Tháng Tám, 2005, có tường xây bảo vệ để giữ cho các ngôi mộ không bị gió thổi bay dạt lớp cát đắp, kể cả nền đã được đổ cát tôn cao hơn mặt bằng tự nhiên trong khu vực. Khu mộ này ở giữa các hộ dân, được giữ gìn khang trang sạch sẽ, là nơi chôn cất 48 tử sĩ, tới nay mới chỉ có ba về được với gia đình.

***
Do nhiều lý do, nên còn đó hàng ngàn chiến sĩ trận vong được an táng trong các nghĩa trang quân đội trước đây, nay vắng bóng người thân lui tới. Có những mộ phần mấy chục năm rồi trở nên hoang hóa, vô thừa nhận, hoặc mất hết dấu tích chẳng biết đâu kiếm tìm. Cả người đã hy sinh và người thân còn sống đều canh cánh nối niềm tha thiết dành cho nhau.
30 Tháng Tư trở thành ngày giỗ của bao nhiêu gia đình có cha, ông, anh, em nằm xuống vì chính nghĩa quốc gia. Có những người đã tìm được thi thể tử sĩ mang về an táng; nhưng cũng còn có rất nhiều gia đình chưa tìm thấy, cũng không biết đâu mà tìm. Nỗi đau lớn lao, nặng nề ấy cứ dai dẳng suốt nửa thế kỷ qua. Làm gì để anh linh các chiến sĩ ấy được thanh thản siêu thoát, và thân nhân gia đình họ được an lòng, là câu hỏi vẫn chưa có lời giải đáp.
***
Đọc thêm: 50 năm, chiến sĩ VNCH nằm xuống: Các anh vẫn chưa yên nghỉ