Từ khi tôi sống ở Sài Gòn (1965) cho mãi đến khi vượt biển 1979, hầu như cây cỏ đều phủ lên một lớp ảm đạm không khác gì gương mặt người dân lành phải chịu đựng cảnh chiến tranh. Chỉ duy nhất khi tôi lập gia đình năm 1973, tuần trăng mật ở Đà Lạt mới cho tôi nhìn thấy nét bình an trên ngàn hoa ngọn cỏ.
Tôi đã dừng chân đứng sững khá lâu, vừa ngắm những bông hoa rừng man dại hồn nhiên trong cảnh trời đất hòa bình xứ người, vừa rộn ràng bâng khuâng hồi tưởng về một thời an lành nơi quê nhà xa xưa, mà giờ đây trên bước đường lưu lạc, biết ngày nào mới có thể trở về lại quê hương, và cỏ hoa nơi quê hương ấy không biết rồi đây trong cảnh thái bình có phục hồi lại được nét thanh thản tươi đẹp, hay cũng vẫn nghèo nàn hiu hắt như người dân nghèo dưới chế độ cộng sản.
Tôi sực nhớ ra rồi đọc câu thơ của Nguyễn Đức Sơn trước bụi hoa rừng, mỉm cười cay đắng “Đụ mẹ cây bông, mầy không lao động, không cho trổ bông”. Nếu mấy cây bông rừng này biết nghe và hiểu được bài thơ ngắn này chắc cũng chua xót giùm cho bông hoa nước Việt trong thời chiến tranh súng đạn.
Ở Berahala, tôi quen anh bạn người Indo tên Marcel, làm nghề tài công lái tàu buôn từ Terempa đến Letung. Anh nói tiếng Anh kha khá, tôi có thể nói chuyện bình thường với anh. Trong khi chờ đợi chuyến hải hành rời LeTung, anh sang Berahala để cho biết người Việt và tìm mua vòng vàng giá rẻ về Terempa bán lại. Tình cờ anh ghé vào nhà chúng tôi, rồi có lẽ thích cái không khí nhà này, nhất là sau khi được mời ăn cơm ăn mấy món cá kho kiểu Việt lạ miệng, nên từ đó cứ mỗi tuần một chuyến hàng, anh đều ghé đến nhà tôi ở chơi.
Anh rủ tôi ra quán café ngoài bãi, tôi cười, nói tôi không có tiền uống café, anh nói anh trả tiền. Sợ buồn lòng người khách bản xứ, tôi cùng anh thả ra bãi, trời sụp tối đã có gió mát. Anh hút Gudang Garam không đầu lọc, khói thuốc mùi hăng hắc như đốt vỏ cây quế, lâu lâu rít mạnh nghe nổ lắc bắc. Anh nói mai về Terempa vài hôm trở lại, hỏi tôi cần gì sẽ mua cho (vì biết tôi không tiền). Tôi xin anh một gói thuốc vấn hiệu Durian (mùi sầu riêng và rẻ tiền) và vài viên kẹo nếu có thể để cho mấy đứa nhỏ.
Từ dịp ấy, anh tỏ ra thân tình với tôi. Vài lần sau trở lại, anh ngỏ ý sẽ thương lượng với người sĩ quan hải quân coi trùm tại Letung, lấy một chiếc ghe vượt biển còn tốt, anh sẽ lái và chỉ dẫn cho tôi để làm “lái đò” đưa rước khách qua lại Letung và Kuku, nếu làm, tôi và Sến (thằng em bà con đi cùng) mỗi ngày lãnh mỗi đứa 800 pat, còn lại bao nhiêu thì về nộp cho ông trùm hải quân, dầu tàu thì ông trùm đổ. Đây là cách duy nhất tôi có thể kiếm ra tiền, lại giúp được thêm cho vợ chồng thằng em, nó cũng hổng tiền y chang tôi. Vậy là tôi rủ Sến, sáng mai hai thằng tui cùng Marcel khởi hành.
*****
Chiếc ghe Marcel lấy làm đò dài khoảng tám mét, bánh lái tàu bằng chiếc cần gặt qua gặt lại, máy 2TGK, số ghe là PT-86, PT là Phan Thiết, chiếc ghe nhỏ này đi vượt biên từ Phan Thiết. Một điều nên nhắc lại, từ khi người tị nạn tới Letung, đổi đôla lấy tiền pat của Indonesia, họ làm cho “thị trường tiền tệ” của Letung trở nên khan hiếm tiền, nhất là giấy 100 và 50, tờ tiền lớn nhất là 500. Khi tôi ra hành nghề “ông Lái Đò” lúc ấy đã có hai đò từ Airaya, còn Kuku thì chưa.
Marcel lái, tôi đứng kế bên để nghe anh chỉ dẫn. Từ cầu tàu đâm thẳng ra biển khoảng vài trăm mét rồi lái chếch về bên trái. Chừng 20 phút, anh chỉ tay nói “nhìn thấy mỏm đá ngầm đen ấy thì nhắm ngay nó chạy tới. Thấy nó gần tàu rồi, vòng ngược kim đồng hồ theo nó rồi đi thẳng. Độ 15 phút sau, lại gặp một mỏm đảo tương tự, lại chạy tới hướng đó rồi quẹo thêm lần nữa (tôi đã quên trái hay phải), rồi chạy thẳng khoảng 10 phút thì đến Kuku. Kuku là một hòn đảo không bãi lài như Berahala, nước sâu và nhiều san hô nên khi nước ròng, sắp vào đảo phải chạy thật chậm và nhìn xuống san hô để tránh. Neo ghe không sát bờ, lội vào hay nhờ xuồng độc mộc ra đón. Thời gian đò tôi chạy một chuyến mất khoảng 45 đến 55 phút.
Vậy là hôm sau, hai anh em tôi bắt đầu ra nghề… đón khách. Sến trên ghe, tôi quần xà lỏn áo thun, đầu chơi cái nón vải cho giống lơ xe đò. Vậy mà tôi lội lên lội xuống năm lần bảy lượt cái đoạn từ cầu tàu tới tiệm chạp phô giữa xóm chợ, mồ hôi đổ lộp độp vẫn chưa đủ can đảm để há miệng la to kêu khách: “Letung Kuku! Letung Kuku! Đò chạy liền, đò chạy liền!” vì hình như có một cái gì nghèn nghẹn ở cổ họng, nó giống như một nỗi nghẹn ngào, một nỗi đau, một tủi thân tủi phận làm sao đó mà cái cổ họng không phọt ra tiếng rao được.
Cuối cùng tôi tự mắng mình “chiện nhỏ này mà mày không làm được mai kia tới xứ người mày làm được cái gì hở thằng khốn nạn!” Bấy giờ cái cổ họng nó mới chịu nghe lời, không những thế, nó còn la to hơn hai tay mời đò cũ kia.
Đò mới nên khách chỉ cỡ nửa đò, khoảng 30 người, nhưng đã đậu bến gần tiếng đồng hồ, hai đò kia đã tách bến trước đó; và có lẽ hết khách đi chợ rồi, đành rời bến thôi. Sến thả tàu chạy chầm chậm chờ tôi thu tiền khách. Như đã nói, tiền trăm lẻ rất hiếm, đò một chuyến 150 pat, khách đưa tờ 500, phải hỏi nếu khách mai còn đi tiếp thì ghi giấy còn dư lại 350, hoặc muốn “thối” bằng mì gói thì gói 50, thuốc Hero thì gói 100. Khách đã quen chuyện này khi mua sắm ở chợ quán nào cũng vậy thôi, nên không ai khó chịu cả, mọi việc êm xuôi.
Lịch trình đò chạy như sau: Sáng sớm đò đưa người từ Letung qua Kuku để tìm hoặc thăm thân nhân bên đó, cộng thêm số khách bên Kuku tới Letung ngủ lại để sáng đi chợ rồi trở về. Xế trưa rước khách từ Kuku qua Letung cũng tương tợ, nhưng phần chính là họ đi mua thực phẩm ở tiệm chạp phô. Hôm nào có tin người tị nạn mới được đổ tới Kuku thì anh em tôi làm một chuyến đò chiều rời LeTung, vài khách cũng được, chạy qua Kuku. Tối neo đò, Sến ngủ giữ.
Tôi lội vào bờ, lên suối tắm rồi đi lòng vòng hỏi thăm tin tức này nọ, rồi tối tới quán cà phê do con của tiệm café ở Letung bành trướng sang Kuku vì làm ăn phát đạt ở Berahala. Tại quán này, tôi tình nguyện làm bồi bàn buổi tối để khi quán dọn dẹp nghỉ bán, tôi được tặng một ly trà đường, rồi được mang cây đàn guitar cũ kỹ của anh con chủ tiệm ra ngồi ngoài mấy gốc dừa gần đó, đàn lẳng tẳng cho quý chủ nhân thưởng thức, cho thằng tui đỡ “buồn xa xứ”.
Tui được thu xếp cho ngủ trên chiếc ghế cây dựa sát tấm vách lá vừng lửng lơ, cuộn mình như con tôm càng, mượn đỡ tờ báo đắp thêm, làm một giấc tới 5 giờ sáng thì lặng lẽ bò dậy, ra bãi, mướn chiếc xuồng mộc cho hai người khách lên ngồi rồi tôi ùm xuống nước lội đẩy “taxi” ra đò cho khách leo lên. Cứ thế, 40 bận được 80 khách thì đầy đò, trả tiền thuê xuồng cho ông cậu, ông cậu thấy run lập cập môi xanh lè bèn tội nghiệp thằng nhỏ, kêu lên xuồng mộc chèo ra đò cho lên.
Thay được cái áo thun khô là vừa nhổ neo vừa thu tiền khách, trong bụng mừng rơn, nhờ tị nạn mới tới nên chở khẳm đò, được tới 80 khách. Vậy là tới Letung hai anh em sẽ tự thưởng mỗi thằng một dĩa cơm cá chiên, mà hạnh phúc nhất là sẽ mua được ly nước cam có bỏ vài viên đá cục bán mắc tiền hơn 2-3 ly không đá. Đó là nhờ quen với anh con chủ quán mới được ưu tiên như vậy đó nghe!
Tôi hành nghề “ông lái đò” được đúng hai tuần lễ thì em Ngoan, cô em út của tôi qua đời vì sốt xuất huyết não, em chỉ hưởng dương được 9 tuổi đầu. Em bắt đầu bị sốt, đến ngày thứ ba thì ba tôi gặp vị bác sĩ duy nhất tại Letung, mới ra trường nên hành nghề tại đảo nhỏ này, và đương nhiên thiếu kinh nghiệm về những tiền triệu chứng của xuất huyết não.
Ba tôi cùng mấy bác sĩ đi chung tàu đề nghị vô nước biển cho em vì nhà có mang theo được một số chai, phòng khi có xảy ra trường hợp cần đến, nhưng bác sĩ trẻ này không đồng ý, vì định bệnh em Ngoan nhiều lắm chỉ là sốt rét. Qua ngày thứ năm, ngày 15 Tháng Năm 1979 thì quá trễ, em bị làm kinh, cả người bị uốn giật dữ dội, máu trào ra cửa miệng rất nhiều, da vàng như sốt rét, em rơi vào tình trạng mê man, rồi tối ngày thứ năm ấy em dứt thở, trong cơn đau đớn vô cùng vì co giật.
Chiếc tàu 0269 của chúng tôi trước đó, khi mới lên Berahala vài hôm, cũng đã mất một bé trai độ hai ba tuổi, là cháu nội của một người Tiều, bạn cùng xứ sở với ba tôi. Vì em còn quá nhỏ nên gia đình chỉ âm thầm chôn cất em không bia mộ, để mong em sớm đầu thai kiếp khác. Ở đây, tôi muốn nói thêm một điều mà hầu như tàu ghe vượt biển nào cũng có, là khi nào đến bờ bình yên thì hình như chiếc nào cũng đều có hy sinh cho “Thần Biển” ít nhất một sinh mạng; là những câu chuyện mang tính huyền bí mà tôi được nghe nhiều người vượt biển kể, tôi rất tiếc không kể lại.
Mấy thanh niên đi chiếc Vũng Tàu tấp vào đảo Mang Kai cũng lên Berahala và dựng lều ở gần ngay cạnh “nhà” tôi. Anh Bi lớn tuổi nhất làm trưởng nhóm đó, rồi sau khi Liên Hiệp Quốc tiếp tế đồ ăn đến Berahala mỗi tuần, nhóm thanh niên này trở thành nhóm khuân vác lương thực của đảo. Chính tay anh Bi tẩn liệm cho em Ngoan, rồi cả nhóm ấy tình nguyện cùng gia đình tôi, lo phần đào huyệt mộ cho em, sau khi ba tôi nhờ ông chủ tiệm chạp phô người Tàu bên Letung tìm xin cho em miếng đất làm nơi chôn cất. Đó là một xẻo đất lưng chừng trên núi.
Khi chôn cất, ba tôi hứa trước phần mộ em Ngoan, khi ba định cư yên ổn rồi, ba sẽ có ngày trở lại mang em về nơi ấy để sum họp cùng gia đình, ba không để em lẻ loi lạnh lẽo nơi này. Lời hứa của ba tôi đã được ông thực hiện mười năm sau đó, sau khi ông vào được quốc tịch Hoa Kỳ. Ông cùng Tuấn, em trai tôi, sang Indonesia, rồi đến Tanjung Pinang, là đảo lớn như một tỉnh lỵ, từ đây có thể tìm tàu đi Letung.
Rất tiếc ông đã hết sức mà không tìm được tàu nào thuê đi Letung, khiến ông rất buồn, buộc phải trở về Mỹ. Sau này ông bảo ông nghiệm lại về chuyến đi tìm con ấy, có lẽ do em Ngoan linh thiêng không muốn ông phải mệt nhọc thêm trong tuổi già sức yếu, nên khiến cho ông tìm hỏi rất nhiều mà không ai biết đảo Letung ở nơi đâu cả, thật vô lý!
Phần mộ em Ngoan là đầu tiên, sau đó khi có người tị nạn mất, tập trung chôn cạnh kề đó, là hình ảnh do chị Oanh chụp mà tôi xem được sau 30 năm nơi xứ người, trong đó tình cờ khám phá ra có phần mộ tên em Ngoan, tình cờ hơn, bức ảnh chụp lúc chị đích thân đang sơn đồ lại tên em Ngoan trên tấm bia mộ đá. Tiếc thay, ba tôi vừa qua đời không lâu, chắc chắn nếu ông còn sống sẽ bị xúc động mạnh và sẽ tìm mọi cách để thực hiện tiếp lời hứa của một người cha. Sau đó gia đình tôi vì không có người theo chị Oanh trong chuyến đi kế tiếp vào Tháng Tư 2010, nên gửi tiền nhờ chị khi đến Letung giùm thay mặt gia đình, xây lại phần mộ cho em. Có lẽ chị vừa rời khỏi Letung không bao lâu lại có chuyến đi “Về bến tự do 8” vào Tháng Ba 2010 do “Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam” tổ chức.
*****
Em Ngoan tôi vừa mất được một tuần thì chiếc tàu 0269 được chính quyền địa phương Letung thông báo sẽ được ưu tiên chuyển về Tanjung Pinang, thành phố có trại tập trung lớn, để từ đây được phỏng vấn và lập hồ sơ định cư. Trước đây, phái đoàn Liên Hiệp Quốc chỉ đến Letung hay các đảo Airaya, Kuku để lấy danh sách, lời khai cá nhân hay gia đình mà thôi. Vào ngày 22 Tháng Năm 1979, toàn bộ người của tàu 0269 được đưa lên một chiếc tàu hàng to chở về Pinang.
Lúc đó, nhà tôi khiêng theo hai băng-ca lên tàu, là người em trai út 11 tuổi và thằng cháu 3 tuổi, cả hai đang trong tình trạng sốt nặng, đang vô nước biển, bị nghi cũng là triệu chứng của sốt xuất huyết. Thật hú vía và thật may mắn, hai đứa bé với giấy giới thiệu của bác sĩ ở Letung nên được chuyển vào bệnh viện ở Pinang lập tức khi tàu vừa cặp bến. Qua trường hợp tử vong của em Ngoan, vị bác sĩ trẻ ở Letung đã tỏ ra hối hận, và từ đó trở nên rất tích cực, tham khảo những lời cố vấn của các bác sĩ tị nạn, sẵn sàng chữa trị theo đề nghị của bác sĩ Việt thừa kinh nghiệm tại Việt Nam.
Mọi người tị nạn khi lên tàu Indonesia đều bị đưa xuống dưới khoang hầm. Riêng tôi tỏ ra dạn dĩ, lên khoang trên, la cà với mấy thủy thủ, nói chuyện qua lại với họ bằng ít tiếng Indo lỏm bỏm, rằng có mấy người “bạn Indo” thân tình trên đảo, làm mấy anh Indo này có thiện cảm, dễ dãi cho tôi đi tới lui dòm ngó trong tàu. Đây là lần thứ hai tôi chính mắt nhìn thấy phòng máy tàu của họ, máy to và mới, có thêm một máy sơ-cua, khiến tôi hình dung đến những chiếc “tàu cướp” Thái Lan, với máy móc như thế làm sao nó không mạnh và không chạy nhanh được!
Như hai chiếc tàu Thái cặp vào hai bên hông tàu chúng tôi để nhảy sang chặt dây cướp hết tất cả mọi hành lý cột trên sàn và nóc tàu. Chúng cặp kè như thế để tàu vượt biên không chạy được, và mỗi khi sóng nhồi tàu chúng va vào tàu Việt cũ kỹ nhỏ bé thì ván tàu con này kêu răng rắc, những thanh niên trên tàu chúng tôi phải đứng dọc hai bên be tàu dùng tay đỡ chịu cho giảm mức độ va chạm mạnh bạo vào thành tàu.
Đêm đó, khi mọi người ngủ yên, tàu chạy khá nhanh ở độ gài bình tốc, tôi nằm xỏ tay chân vào dây ràng chằng chịt những kiện hàng trên nóc mui tàu to rộng. Bầu trời đầy đặc sao sáng, gió biển ban đêm vào tháng năm không lạnh lắm. Ngửa mặt lên trời, trong lòng thật quá nhiều điều nghi nan và hỗn độn.
Nghĩ đến bến bờ Pinang sắp đến, không thể nào hình dung sẽ ra sao. Những điếu thuốc vấn “sầu riêng” cứ lát lát bập bùng đóm lửa, có lẽ đóm lửa nhỏ bé gần gụi này mới soi thấy bao nỗi lo âu trong ánh mắt người thanh niên tị nạn này, nhưng nó không thể nào ủy lạo được điều chi, nó chỉ làm được điều duy nhất là khi khói thuốc thấm vào óc não thì nó cho cảm giác bình tĩnh, ấm áp, hiện hữu.
Tôi xin dừng ở đây, chỉ ghi thêm cái cảm giác đầu tiên khi đến Tanjung Pinang, là từ nay trở đi không còn thèm nước đá nữa; thứ nhì là có thuốc lá đủ loại: Lucky, Pall Mall, Dunhill, 555…, Mỹ, Ăng-Lê đủ thứ; thế giới văn minh đã trở lại: đèn điện đầy đường; và xe hơi, xe gắn máy tràn ngập. Tôi đã được trả về lại thế giới văn minh…