Bánh mì?

Bánh mì.(Hình minh họa: chez gilbert saigon/Unsplash)

Trong tuần lễ này, CSVN ồn ào kỷ niệm 80 năm ngày chúng cướp được chính quyền.

Cái ngày lịch sử ấy cũng mở ra một chuỗi chiến tranh đẫm máu, kéo dài cho đến khi quân đội Pháp rút khỏi Đông Dương năm 1954.

Thế nhưng, dẫu người Pháp ra đi, họ vẫn để lại trong lòng đất Việt một thứ di sản vừa hữu hình vừa vô hình: từ kiến trúc, ngôn ngữ, cho tới… ổ bánh mì thịt. Người Pháp thống trị VN cả trăm năm (1854-1954) nhưng cũng để lại một bóng dáng văn hóa không thể chối bỏ.

Bước vào Quảng Trường Ba Đình hôm nay, ta thấy ngay hai tòa nhà vàng rực rỡ: Phủ Chủ Tịch và trụ sở Bộ Ngoại Giao – những công trình Đông Dương kiểu Pháp thuộc loại bảo tồn tốt nhất Hà Nội. Ấy vậy mà khi Reuters phỏng vấn mấy bạn trẻ Hà Nội ngay trước trụ sở ấy, không ai biết chúng mang dấu ấn kiến trúc Pháp.

Một cô gái 30 tuổi hồn nhiên bảo: “Em đến đây vì nó có kiến trúc độc đáo và được nhiều người nổi tiếng check-in thôi.” Nghe mà bật cười – hóa ra di sản Pháp đôi khi chỉ còn sống nhờ Instagram.

Ngôn ngữ Molière trong đất Việt. Có thời, tiếng Pháp từng là dấu hiệu của sự sang trọng, là thứ ngôn ngữ của trí thức và quan chức. Nhưng ngày nay, nó đang dần lép vế. Chỉ có 400 học sinh chọn thi tiếng Pháp tốt nghiệp, trong khi 358,000 chọn tiếng Anh, hơn 4,400 chọn tiếng Trung. Một cô bạn trẻ khác thẳng thắn: “Nếu phải chọn, tôi sẽ học tiếng Trung vì gần gũi hơn và có lợi hơn.” Ngôn ngữ Molière dường như trở thành món hàng xa xỉ trong chợ toàn cầu hóa. Đại sứ quán Pháp thống kê được 63,000 người Việt học tiếng Pháp, nhưng so với cả trăm triệu dân, con số ấy chỉ như một lát baguette mỏng phết chút bơ, ăn chưa kịp thấy đã tan.

Ấy vậy, người Pháp không hẳn buồn. Khi Tổng Thống Emmanuel Macron thăm Hà Nội hồi tháng Năm, ông cười tươi khi nghe sinh viên phát biểu bằng tiếng Pháp lưu loát. Cũng giống như nghe ai đó đọc lại một câu thơ của Victor Hugo giữa chợ Bến Thành – vừa bất ngờ vừa hoài niệm.

Bánh sừng và pate. Nhưng nếu tiếng Pháp có thể mai một, thì di sản Pháp trong ẩm thực Việt Nam thì sống khỏe như… bánh mì thịt buổi sáng.

Trên mọi ngả đường, quán cà phê nở rộ như nấm sau mưa; bánh sừng bò (croissant) nằm trong tủ kính; pate len lỏi vào từ ổ bánh mì đến mâm cơm gia đình. Người Việt ăn, thưởng thức mà ít ai nhớ rằng tất cả vốn là “quà” từ thời thuộc địa.

Và đây mới là điểm then chốt: bánh mì baguette – linh hồn của món ăn nhanh Việt Nam. Người Pháp mang sang chiếc baguette dài thòng, giòn rụm. Người Việt liền cắt ngắn lại, cho thêm chả lụa, thịt nướng, dưa chua, rau thơm, thậm chí cả đậu hũ cho người ăn chay. Từ đó nảy sinh “bánh mì thịt” – thứ mà thiên hạ ngày nay gọi trịnh trọng là “Vietnamese Banh Mi.” Từ nguyên chữ “bánh mì” Nói về từ nguyên, ta phải phân biệt rõ: “bánh mì”vốn dĩ là cách Việt hóa chữ “pain de mie” trong tiếng Pháp (nghĩa là “bánh ruột mềm”)

Trải qua thời gian, người Việt lược âm thành “bánh mì”, dùng để chỉ chung loại bánh làm từ bột mì nướng! (Giải thích như thế tôi cho là giải thích ẩu. Bánh mì là bánh làm bằng bột mì cũng như rượu nếp làm bằng nếp, rượu gạo làm bằng gạo thế thôi!).

Rồi chiếc baguette – vốn chỉ là một biến thể – trở thành cái nền cho ổ bánh mì Việt Nam. Thế mới có chuyện ngộ nghĩnh: thế giới học tiếng Việt bằng một từ duy nhất – “banh mi” (không dấu) – coi đó là tiếng Anh chính thức chỉ món ăn quốc hồn quốc túy. Một di sản thuộc địa biến thành thương hiệu toàn cầu, còn gì thú vị hơn?

Nhưng thử hỏi: “Bánh sừng bò” có còn là croissant không? “Pate” có còn giữ hồn Pháp? Câu trả lời: không hẳn. Người Việt đã biến đổi tất cả cho hợp khẩu vị mình. Pate Việt thường nặng mùi gan, béo, mặn hơn. Bánh sừng bò thì nhiều nơi nướng vàng ruộm, thậm chí phết thêm bơ sữa đặc.

Người Pháp ăn vào chắc cũng… nổi đoá, nhưng người Việt thì thấy ngon. Đó là cách ẩm thực xứ ta trường tồn: tiếp nhận rồi cải biên, pha trộn, làm thành của riêng.

Bánh mì: một thứ ngoại giao mềm. Chẳng cần diễn văn chính trị, chiếc bánh mì đã làm công tác ngoại giao. Nó xuất hiện trong danh sách ẩm thực đường phố nổi tiếng thế giới, đi cùng phở, gỏi cuốn. Một du khách Tây balô có thể quên mất bài học lịch sử ở Điện Biên Phủ, nhưng chắc chắn nhớ cái ổ bánh mì 15,000 VND ở Sài Gòn.

Người Pháp từng muốn “khai hóa văn minh” Đông Dương bằng súng đạn và nhà thờ, nhưng rốt cuộc họ thành công nhất ở chỗ… để lại ổ bánh mì. Cũng nên công bằng: nếu không có người Việt sáng tạo, cái baguette khô khốc kia đã chẳng biến thành bữa ăn đường phố tiện lợi, ngon lành và rẻ tiền đến thế.

Độc lập và di sản. Trong ngày kỷ niệm độc lập, CS khoe khoang đã lãnh đạo dân Việt thoát khỏi xiềng xích thực dân. Nhưng CS không có quyền phủ nhận sạch trơn di sản. Trái lại, văn hóa Việt Nam phong phú chính bởi khả năng “đồng hóa ngược”: biến cái ngoại lai thành cái của mình.

Người trẻ có thể chẳng biết Bộ Ngoại Giao mang dáng dấp kiến trúc Pháp, nhưng họ ăn bánh mì mỗi sáng, uống cà phê mỗi chiều. Ngôn ngữ Pháp có thể tàn phai, nhưng “banh mi” vẫn đi vào Oxford Dictionary. Một cách mỉa mai ngọt ngào: chính thứ mà người Pháp coi thường – thức ăn đường phố của dân thuộc địa – nay lại trở thành biểu tượng ẩm thực toàn cầu, vượt xa baguette nguyên thủy.

Kết luận: ổ bánh mì – bản tuyên ngôn đời thường. Nếu ngày 2 tháng 9 năm 1945 lãnh tụ CS Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại Ba Đình, thì mỗi ngày hôm nay, hàng triệu người Việt đọc bản “tuyên ngôn đời thường” bằng cách cắn vào ổ bánh mì nóng hổi. Còn đảng CS làm gì thì kệ bố chúng!

Một bên là nghi lễ trang trọng, một bên là miếng ăn dân dã. Việt Nam vừa là đất nước của lịch sử bi tráng, vừa là nơi của đời sống dung dị, nơi những gì ngoại lai đều có thể trở thành bản sắc.

Nói cho cùng, độc lập không chỉ là chuyện chính trị. Độc lập còn là khả năng biến cái baguette dài ngoằng thành ổ bánh mì gọn ghẽ, nhét chả, thêm đồ chua, xịt chút nước tương, ăn vừa khẩu vị của người Việt. Người Pháp đã rút đi, nhưng di sản của họ vẫn ở lại – trong miếng pate béo ngậy, trong ly cà phê sữa đá, và trên hết, trong ổ bánh mì giòn tan.

Vậy nên, ta có thể mỉm cười: Bánh mì dài ư? Không, chỉ có “bánh mì” – món ăn Việt Nam, bản sắc Việt Nam, niềm tự hào Việt Nam. Nhưng điều đáng buồn là: người Việt mình vừa thoát khỏi cái cùm của thực dân Pháp để bị CS còng vô cổ một cái gông đời nô lệ.

(Melbourne, Úc)

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: