MỘT ĐẢNG THẤT BẠI (I)

Một người trong cuộc chia tay với Bắc Kinh

Thái Hà (Cai Xia) – Hiếu Chân dịch

LTS: Thái Hà (Cai Xia), 68 tuổi, nguyên là giáo sư Trường Đảng Trung ương của đảng Cộng sản Trung Quốc, nơi đào tạo các nhà lãnh đạo đảng và chính phủ Trung Quốc, đã nghỉ hưu. Hồi tháng Tám bà Thái bị khai trừ khỏi đảng đồng thời cắt hết quyền lợi hưu trí của bà bởi vì bà đã có những phát biểu “có vấn đề trầm trọng về chính trị, hủy hoại danh tiếng của đảng”, kêu gọi thay thế ông Tập Cận Bình ở cương vị lãnh đạo đảng là bước đi đầu tiên để đảng Cộng sản tự cứu mình. Trong bài viết dài đăng trên tạp chí nổi tiếng The Foreign Affairs số tháng 1 & 2 năm 2021 (đăng ngày 05-12-2020) như một bản tự thuật bà Thái đã trình bày diễn tiến về nhận thức của bà từ một đảng viên trung kiên và cao cấp trở thành một người bất đồng chính kiến. SGN đã có bài về bà Thái trước đây, nay dịch và giới thiệu bài viết của bà để bạn đọc hiểu được sự thối nát và giả dối về tư tưởng của đảng cai trị đất nước đông dân nhất thế giới này.  

Khi Tập Cận Bình (Xi Jinping) lên cầm quyền năm 2012, tôi tràn trề hy vọng cho Trung Quốc. Là giáo sư của một trường uy tín chuyên đào tạo các nhà lãnh đạo hàng đầu của đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), tôi đủ hiểu biết lịch sử để kết luận rằng thời điểm Trung Quốc mở cửa hệ thống chính trị đã qua rồi. Sau một thập niên trì trệ, ĐCSTQ cần cải cách hơn bao giờ và Tập, tỏ dấu hiệu cho thấy là người có thiên hướng thay đổi, dường như sẽ là người dẫn dắt cuộc cải cách đó.

Khi ấy tôi đã đi được một nửa quá trình kéo dài hàng thập niên vật lộn với hệ tư tưởng chính thức của Trung Quốc, cho dù tôi có trách nhiệm truyền bá hệ tư tưởng đó cho các quan chức. Có thời là một người Marxist nồng nhiệt, tôi đã chia tay với chủ nghĩa Marx và càng ngày càng nhìn sang tư tưởng của Phương Tây để tìm câu trả lời cho những vấn đề của Trung Quốc. Một thời là người bảo vệ kiêu hãnh cho các chính sách chính thức, tôi bắt đầu biện hộ cho tự do hóa. Một thời là đảng viên trung kiên của ĐCSTQ, tôi đã bí mật nghi ngờ sự trung thực trong niềm tin của đảng và mối quan tâm của đảng đối với nhân dân Trung Quốc.

Vì thế tôi không nên ngạc nhiên khi hóa ra Tập không phải là nhà cải cách. Trong suốt nhiệm kỳ của ông ta, chế độ đã thoái hóa hơn nữa vào một chế độ quả đầu chính trị chỉ cốt duy trì quyền lực thông qua sự tàn bạo và nhẫn tâm. Chế độ đã trở nên ngày càng đàn áp và độc tài. Một sự sùng bái cá nhân bao quanh Tập, người đã siết chặt quyền kiểm soát đảng về ý thức hệ và xóa bỏ chút không gian còn lại dành cho phát ngôn chính trị và xã hội dân sự. Những người không sống ở Trung Quốc lục địa trong tám năm qua khó có thể hiểu được chế độ đó đã trở nên tàn bạo như thế nào, đã gây ra bao nhiêu bi kịch thầm lặng. Sau khi lên tiếng chống lại hệ thống, tôi biết tôi không còn an toàn khi sống ở Trung Quốc.

Phần 1: Giáo dục một người cộng sản; từ sinh viên trở thành thầy giáo

Giáo dục một người Cộng sản

Tôi sinh ra trong một gia đình quân đội Cộng sản. Năm 1928, khi cuộc nội chiến Trung Quốc bắt đầu, ông ngoại tôi gia nhập cuộc khởi nghĩa nông dân do Mao Trạch Đông (Mao Zedong) dẫn dắt. Khi đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng tạm gác thù địch trong thời Thế Chiến thứ Hai, cha mẹ tôi và phần lớn gia đình bên ngoại tôi chiến đấu chống quân xâm lược Nhật Bản trong đoàn quân do đảng Cộng sản lãnh đạo.

Sau chiến thắng của đảng Cộng sản năm 1949, cuộc sống thật tốt đẹp cho một gia đình cách mạng như gia đình tôi, Cha tôi chỉ huy một đơn vị Quân Giải phóng Nhân dân gần Nam Kinh, còn mẹ tôi quản lý một văn phòng trong chính quyền thành phố đó. Cha mẹ tôi cấm hai chị tôi và tôi lợi dụng các đặc quyền của cơ quan họ, để chúng tôi không trở thành “các cô chiêu tư sản hư hỏng”. Chúng tôi không thể đi lại trên chiếc xe hơi công vụ của cha tôi và các cận vệ của ông không bao giờ làm những việc vặt trong gia đình tôi, Tuy vậy, tôi được hưởng lợi từ vị thế của cha mẹ tôi và không bao giờ chịu đựng nỗi thống khổ mà rất nhiều người Trung Quốc phải chịu trong những năm tháng thời Mao. Tôi không biết gì về hàng chục triệu người bị chết đói trong thời kỳ Đại Nhảy Vọt.

Có thời là một người Marxist nồng nhiệt, tôi đã chia tay với chủ nghĩa Marx và càng ngày càng nhìn sang tư tưởng của Phương Tây để tìm câu trả lời cho những vấn đề của Trung Quốc. Một thời là người bảo vệ kiêu hãnh cho các chính sách chính thức, tôi bắt đầu biện hộ cho tự do hóa. Một thời là đảng viên trung kiên của ĐCSTQ, tôi đã bí mật nghi ngờ sự trung thực trong niềm tin của đảng và mối quan tâm của đảng đối với nhân dân Trung Quốc.

Tất cả những gì tôi nhìn thấy là tương lai tươi sáng của chủ nghĩa xã hội. Tủ sách của gia đình tôi đầy những trước tác Marxist, chẳng hạn như Tuyển tập StalinCán bộ cần đọc. Khi còn là thiếu niên tôi dùng những cuốn sách này làm sách đọc thêm ngoại khóa. Mỗi khi giở những trang sách ấy ra, lòng tôi tràn đầy niềm kính phục. Cho dù tôi không nắm được tính phức tạp trong các lập luận của sách, sứ mệnh củ tôi thật rõ ràng: Tôi phải yêu tổ quốc mình, thừa kế sự nghiệp cách mạng của cha mẹ tôi và xây dựng một xã hội cộng sản chủ nghĩa không còn người bóc lột người. Tôi là một tín đồ thật sự.

Tôi có được sự hiểu biết tinh tế hơn về tư tưởng cộng sản sau khi gia nhập Quân Giải phóng Nhân dân năm 1969, ở tuổi 17. Cuộc Cách mạng Văn hóa đang lên cao trào, Mao đòi hỏi mọi người phải đọc sáu cuốn sách của Karl Marx và Friedrich Engels, kể cả Tuyên ngôn Cộng sản. Một đoạn văn không thực tế trong cuốn tuyên ngôn đó đã để lại ấn tượng lâu dài trong tôi: “Thay cho xã hội tư sản kiểu cũ với những giai cấp và hận thù giai cấp chúng ta sẽ có một xã hội mới, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Mặc dù vào thời điểm đó tôi không thật sự hiểu rõ quan niệm về tự do, những lời nói ấy in sâu vào đầu óc của tôi.

Quân Giải phóng Nhân dân cử tôi về một trường y khoa quân đội. Công việc của tôi là quản lý thư viện của trường, trong đó có nhiều bản dịch tiếng Trung Quốc các tác phẩm “phản động”, phần lớn là văn chương và triết học chính trị Tây Phương. Nổi bật nhờ đóng bìa màu xám, những cuốn sách này chỉ dành riêng cho những người trong cuộc của chế độ với mục đích giúp họ quen với những đối thủ ý thức hệ của Trung Quốc, nhưng tôi cũng bí mật đọc được. Tôi có ấn tượng nhất với cuốn Thăng trầm của Đế chế Thứ Ba của nhà báo Mỹ William Shirer và tuyển tập các truyện ngắn Xô viết. Tôi nhận ra rằng có một thế giới ý tưởng bên ngoài những cuốn sách kinh điển Marxist. Nhưng tôi vẫn tin chủ nghĩa Marxism là chân lý duy nhất.

Tôi rời quân đội năm 1978 và có được việc làm trong nghiệp đoàn do đảng điều hành ở một nhà máy sản xuất phân bón ở ngoại ô thành phố Tô Châu. Khi ấy, Mao đã chết và Cách mạng Văn hóa đã kết thúc. Người kế vị ông ta, Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping) mở ra một giai đoạn cải cách và mở cửa, và trong một phần của nỗ lực này, ông ta tuyển mộ một thế hệ mới những cán bộ có đầu óc cải cách có thể điều hành đảng trong tương lai. Mỗi tổ chức đảng địa phương phải chọn ra một vài đảng viên để phục vụ trong nhóm này, và tổ chức đảng Tô Châu đã chọn tôi. Tôi được cử theo học chương trình hai năm tại Trường Đảng thành phố Tô Châu, nơi tôi và các bạn cùng lớp nghiên cứu học thuyết Marx và lịch sử đảng Cộng sản Trung Quốc. Chúng tôi cũng được học chút ít về văn chương cổ điển Trung Quốc, môn học mà chúng tôi đã bị lỡ do giáo dục bị gián đoạn trong thời Cách mạng Văn hóa.

Tôi đã nghiền ngẫm cuốn Tư Bản luận hai lần, đã học được những chỗ đúng và chỗ sai của học thuyết Marx. Điều hấp dẫn tôi nhất là những ý tưởng của Marx về lao động và giá trị – nói đúng ra đó là nhà tư bản tích lũy của cải bằng cách lợi dụng người lao động. Tôi cũng ấn tượng với cách tiếp cận triết học của Marx, chủ nghĩa duy vật biện chứng, cho phép ông nhìn các hệ thống chính trị, pháp lý, văn hóa và đạo đức của chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên nền tảng của sự bóc lột kinh tế.

Khi tôi tốt nghiệp năm 1986, tôi được mời ở lại trường làm giảng viên, lúc ấy trường đang thiếu người dạy. Tôi nhận lời, và làm một số nhà lãnh đạo thành phố tức giận vì họ nghĩ tôi sẽ có một tương lai hứa hẹn hơn nếu làm cán bộ đảng. Thay vì vậy, công việc mới đã khởi động sự nghiệp của tôi như là một nhà nghiên cứu trong hệ thống truyền bá ý thức hệ của đảng Cộng sản Trung Quốc.

Từ sinh viên trở thành thầy giáo

Trên đỉnh cao của hệ thống đó là Trường Đảng trung ương ở Bắc Kinh. Từ năm 1933, trường này đã đào tạo nhiều thế hệ cán bộ cấp cao nhất của đảng Cộng sản Trung Quốc, những người điều hành guồng máy quan lại Trung Quốc cấp thành phố trở lên. Trường có quan hệ mật thiết với giới tinh hoa trong đảng và luôn được một ủy viên Bộ Chính Trị phụ trách. (Chủ tịch của trường từ 2007 đến 2012 không ai khác hơn là Tập Cận Bình).

Tôi kinh hoàng khi thấy Quân Giải phóng Nhân dân nổ súng vào các sinh viên đại học; điều đó trái với lời dạy tôi học được từ bé rằng quân đội bảo vệ nhân dân

Tháng Sáu năm 1989, chính phủ đàn áp những người biểu tình đòi dân chủ ở Quảng trường Thiên An Môn, giết chết hàng trăm người. Trong thâm tâm, tôi kinh hoàng khi thấy Quân Giải phóng Nhân dân nổ súng vào các sinh viên đại học; điều đó trái với lời dạy tôi học được từ bé rằng quân đội bảo vệ nhân dân, chỉ có “bọn quỷ Nhật” và bọn phản động Quốc Dân Đảng mới giết dân. Kinh hoàng bởi cuộc phản kháng, cùng với sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu, giới lãnh đạo chóp bu đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định phải chống lại sự lỏng lẻo về ý thức hệ. Đảng ra lệnh cho các trường đảng địa phương phải cử một số giảng viên lên Trường Đảng Trung ương để chỉnh đốn về tư tưởng của đảng. Trường tôi dạy ở Tô Châu chọn tôi. Thời gian ngắn ngủi ở Trường Đảng Trung ương lại làm tôi muốn học tập ở đó lâu hơn nữa. Sau một năm chuẩn bị thi tuyển, tôi được nhận vào chương trình thạc sĩ ở khoa lý luận của trường. Thế là tôi đã hiến dâng cho đường lối của đảng Cộng sản tới mức mà sau lưng tôi, các bạn học gọi tôi là “Mụ Marx Già”. Năm 1998, tôi nhận bằng tiến sĩ và gia nhập đội ngũ giảng viên của trường.

Một số học trò của tôi là sinh viên cao học bình thường, những người đang dạy chương trình quy ước về học thuyết chính trị Marxist và lịch sử đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng những người khác là cán bộ đảng trung – cao cấp; kể cả lãnh đạo chính quyền các tỉnh, thành phố và các bộ trưởng trong chính phủ. Vài học viên của tôi là ủy viên Ủy ban Trung ương đảng Cộng sản, cơ quan có chừng vài trăm đại biểu ngồi trên đỉnh quyền lực của đảng và phê chuẩn các quyết định quan trọng.

Dạy ở Trường Đảng Trung ương không phải là việc dễ. Máy quay video trong các phòng học ghi lại bài giảng của chúng tôi, sau đó cấp trên sẽ xem lại. Chúng tôi phải làm cho môn học trở nên sinh động với các học viên cao cấp và sinh viên trong lớp học, không được diễn giải học thuyết quá linh hoạt hoặc lôi kéo sự chú ý vào các điểm yếu của học thuyết. Thường thường, chúng tôi phải nghĩ ra những câu trả lời khôn ngoan cho những câu hỏi khó mà các quan chức trong lớp đặt ra.

Đa số những câu hỏi của họ xoay quanh những mâu thuẫn khó hiểu trong ý thức hệ chính thống, vốn được soạn thảo để biện minh cho các chính sách mà đảng Cộng sản Trung Quốc thực hiện trong thực tiễn. Một sửa đổi bổ sung vào hiến pháp Trung Quốc năm 2004 nói rằng, chính phủ bảo vệ nhân quyền và quyền tư hữu. Nhưng thế thì quan điểm của Marx rằng hệ thống cộng sản chủ nghĩa nên bãi bỏ quyền sở hữu tư nhân sẽ thế nào? Đặng muốn “cho phép một bộ phận dân chúng giàu lên trước” để động viện nhân dân và kích thích năng suất. Điều đó làm sao phù hợp với lời hứa của Marx rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ cung cấp cho mỗi người tùy theo nhu cầu?

Tôi vẫn trung thành với đảng Cộng sản Trung Quốc nhưng thường xuyên đặt nghi vấn niềm tin của chính mình. Trong thập niên 1980, giới học thuật Trung Quốc đã có cuộc tranh luận sinh động về “Chủ nghĩa nhân đạo Marxist” – một dòng tư tưởng Marxist nhấn mạnh vào sự phát triển toàn diện của cá tính con người. Vài học giả tiếp tục cuộc tranh luận đó trong thập niên 1990 dù quy mô của thảo luận có thể chấp nhận được đã bị thu hẹp. Tôi nghiên cứu Bản thảo Kinh tế và Triết học năm 1844 của Marx, trong đó nói mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là giải phóng cá nhân. Tôi tán thành các nhà triết học Marxist nhấn mạnh vào tự do – nổi bật nhất là Antonio Gramsci và Herbert Marcuse.

Ngay từ luận án thạc sĩ, tôi đã phê phán ý tưởng con người luôn luôn nên hy sinh quyền lợi cá nhân để phục vụ đảng. Trong luận văn tiến sĩ, tôi thách thức câu khẩu hiệu cổ Trung Quốc “quốc phú binh cường” bằng lập luận rằng Trung Quốc chỉ có thể hùng mạnh nếu đảng cho phép công dân được giàu có. Giờ đây tôi đưa lập luận này lên một bước xa hơn. Trong các bài nghiên cứu và trò chuyện, tôi cho rằng doanh nghiệp nhà nước đã thống trị quá đáng nền kinh tế Trung Quốc, và cần cải cách sâu rộng hơn nữa để cho phép các công ty tư nhân cạnh tranh. Tôi nhấn mạnh, không nên coi tham nhũng chỉ là sự thất bại về đạo đức của cá nhân cán bộ mà phải là vấn đề có tính hệ thống sinh ra từ sự quản lý chặt của chính phủ đối với nền kinh tế.

Xem tiếp:

Phần 2: Lý thuyết và thực tiễn; Giới tinh hoa vô học; Hệ tư tưởng trống rỗng; Ý tưởng để bán

Phần 3: Ý tưởng để bán; Con đường khác

Phần 4: Thất vọng với Tập Cận Bình; Cọng rơm cuối cùng

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: