Hà Nội, hai người bạn thuở ấu thơ: Hiền, người bạn thứ nhất

(Hình minh họa: Lê Mạnh Quỳnh/Unsplash)

Cuộc đời là thế, cô Kiều từ một giai nhân sắc nước hương trời, một gia đình quý phái, danh gia nhưng cũng vì định mệnh mà phải trần trụi với tang thương, nhơ nhuốc của một cô gái bán hoa… Đó không là “phần số” hay sao! Đúng là:

Bắt phong trần phải phong trần

Cho phong lưu mới được phần phong lưu!

(Truyện Kiều)

Trận đói kinh hoàng năm Ất Dậu 1945 xảy ra tại miền Bắc Việt Nam đi qua được khoảng nửa năm thì tôi được sinh ra. Quê tôi một làng quê nghèo dọc theo hữu ngạn sông Hồng, thuộc phủ Xuân Trường tỉnh Nam định. Trong 4 năm tuổi đầu đời, tôi hoàn toàn không nhớ gì về những khốn khổ đã xảy ra cho gia đình tôi, khoảng thời gian nền chính trị của VN rất phức tạp đó. Nhưng  qua lời kể lại từ bố mẹ đã cho tôi hình dung ra được phần nào những tang thương, đói khổ vì chiến tranh và thiên tai như bão lũ, vỡ đê…mà phần lớn người dân miền Bắc nhất là ở những vùng thôn quê hay cao nguyên phải lãnh chịu.

Không chỉ khốn khổ với thiên nhiên tàn phá, mà dân làng của tôi còn bị đầy đoạ với những đoàn lính Lê Dương của quân đội Pháp, từ các xứ thuộc địa bên Phi châu sang. Lũ quân mọi rợ, tàn bạo này không có gì là chúng không dám làm, giết người cướp của, hãm hiếp đàn bà con gái trong những khu vực mà chúng đi qua.

Bố mẹ tôi cho biết, thời đó người dân dù có muốn bám lấy ruộng vườn, nơi ông cha mình đã nhiều đời sinh sống, lập nghiệp cũng không được. Nhưng bỏ làng ra đi, tìm nơi khác yên ổn hơn để kiếm kế sinh nhai cũng không phải dễ dàng nếu không có người quen, thân thích đã sống ở đó giúp đỡ. Nhất là những ngày đầu tiên còn ngờ nghệch thì chuyện định cư lâu dài được coi không dễ!

Trong những năm tôi còn ẵm bế trên tay đó, bố mẹ tôi đã bao nhiêu lần bỏ làng đi lánh nạn, khi thì lên tỉnh thị Nam Định, lúc thì đến Hà nội… Ăn nhờ ở đậu vài ba người họ hàng, nhưng thấy họ cũng chẳng khá gì hơn, cũng phải chui rúc vào những xó xỉnh nào đó trong thành phố, tờ mờ sáng, khi mặt trời chưa mọc đã chia nhau đi làm đủ mọi việc ở bến cảng, nhà ga xe lửa để kiếm sống. Với tình trạng như vậy, gia đình tôi cũng chỉ dám làm phiền một vài ngày hay quá lắm một tuần lễ cho qua cơn hoạn nạn, rồi nghe ngóng tình hình, thấy có tí yên ổn lại dắt díu nhau trở về làng. Nhưng cũng chỉ được vài ba tháng hay nửa năm, bom đạn, chém giết, thiên tai… lại đến và lại bồng bế ra đi. Cứ thế suốt khoảng 4-5 năm đầu đời của tôi toàn là chạy loạn.

Từ năm 1951,  dù chỉ mới 5 tuổi nhưng ký ức tôi đã hằn sâu biết bao nhiêu cảnh tượng kinh hoàng của thời loạn ly đó. Những lần anh em chúng tôi đang chơi đùa hay đang ăn dở bữa cơm, nghe thấy tiếng máy bay hay người làng hô hoán… Bố mẹ vội vàng ôm lấy chúng tôi nhẩy vội vào đường hầm chữ chi lõm bõm nước mưa tránh bom phía sau nhà. Trên trời chiếc máy bay gầm rú thả bom hay bắn phá. Buổi tối, dưới ánh trăng mù mờ trên sân phơi thóc, hàng chục người rên la, đau đớn, thân mình cháy đen vì bom Napal. Món thuốc chữa phỏng duy nhất cho nạn nhân là mỡ bò, mỡ lợn.

Tôi còn nhớ, những lần chạy loạn, bố tôi một tay vác bao quần áo, vài dụng cụ linh tinh, tay kia nắm lấy tôi, Mẹ thì gánh hai cái thúng, mỗi thúng một đứa em, nối theo đoàn người chạy loạn trên những con đường đê hay bờ ruộng. Xa xa phía sau những cột khói đen lan tỏa trên bầu trời mang theo mùi cháy khét của bom đạn. Trong những cuộc tản cư, chạy loạn đó, lúc thì đi bộ, lúc thì đi xe bò kéo, lúc thì đi thuyền. Hình ảnh những xác chết vô thừa nhận ung rữa theo bờ ruộng hay bập bềnh trong dòng sông, mương rạch… mãi mãi khắc sâu vào ký ức kinh hoàng tuổi ấu thơ của tôi trong những lần chạy loạn đó.

Đến khoảng cuối năm 1951, thiên tai, loạn lạc đã làm cho cuộc sống gia đình tôi đến mức kiệt quệ, không thể nào tiếp nối những cuộc tản cư “ du mục “ đó được nữa. Cứ ra đi rồi lại trở về, rồi lại ra đi, ruộng vườn bỏ hoang, làm sao mà sống ? Bố mẹ tôi và một gia đình người cùng làng quyết định lên Hà nội, nương tựa vào nhau sống qua ngày và tìm cách định cư tại đó. Tôi còn nhớ rõ căn nhà ọp ẹp đầu tiên, gia đình tôi gồm 5 người, gia đình người đồng hương có 2 đứa con khoảng 3, 4 tuổi, cùng thuê một ngóc ngách nghèo nàn, nhầy nhụa rác rưởi trong khu phố Hàng Bột, Hà Nội. Căn nhà trống hoác, đúng nghĩa một chòi lá, diện tích không quá 15, 16 mét vuông dành cho 9 người sinh sống. Một tấm liếp ngăn ở giữa chia ra làm 2 phòng dành cho hai gia đình, mọi người tự vun vén mà sống với nhau. Phía sau nhà, một chái nhỏ hớ hênh dùng cho việc bếp núc và tắm rửa, còn vệ sinh cá nhân thì ra bãi rác gần nhà mà giải quyết.

Hàng ngày, gà chưa gáy hai bà mẹ đã thức dậy nấu nướng sơ sài bữa cơm “độn ngô khoai “ cho mọi người dằn bụng trước khi bốn người lớn chia nhau đi làm kiếm sống. Công việc thì bất định, lúc thì lên chợ Đồng xuân, khi thì đến nhà ga xe lửa… làm bất cứ việc gì miễn là kiếm được tiền chu cấp cho việc ăn uống của hai gia đình. Còn lũ trẻ con chúng tôi thì loanh quanh chơi đùa trong xóm. Đến trưa người lớn thu xếp chạy vội về nhà lo cho bữa cơm trưa đơn sơ, có gì ăn nấy rồi lại ra đi kiếm tiền cho đến tối mịt mới trở về nhà.

Chúng tôi sống như vậy được khoảng hơn nửa năm, đúng lúc có phong trào nhập ngũ tuyển quân để thành lập quân đội Việt Nam do Pháp và Mỹ giúp đỡ. Nhờ sự dẫn dắt của một người quen biết với một ông quan Năm ( đại tá ?) trong quân đội Pháp, bố tôi và vài người cùng làng gia nhập vào quân đội VN. Ông quan Năm kéo bố tôi cùng vài người lính khác về làm lính hầu cho gia đình trong một căn biệt thự to lớn tại Hà nội. Đó là điểm mốc khởi đầu cuộc sống mới, tạm gọi là an định của gia đình tôi tại Hà nội. Một gia đình gốc nông dân tay lấm chân bùn chỉ vì sự chấn ép của thời cuộc, phải rời xa ruộng vườn, bước vào một dạng sinh nhai mới của kiếp tôi tớ tại thành phố, nơi mà chúng tôi chẳng có gì ngoài sức lao động và sự nhẫn nhịn để vươn lên.

Gia đình tôi cùng với khoảng 5,6 gia đình cùng khổ khác đến từ các vùng quê loạn lạc của miền Bắc chen chúc nhau trong một dãy nhà dành cho lính tráng, tôi tớ ở góc vườn phía sau căn biệt thự đồ sộ hai tầng của gia đình ông quan Năm. Cuộc sống tạm gọi là yên định vì có đồng lương hàng tháng của quân đội, mặc dù bố và cả mẹ tôi cũng phải è lưng ra làm việc không kể ngày đêm trong vị trí của kẻ tôi tớ. Ngoài việc hầu hạ cho gia đình chủ nhân còn phải phục dịch cho những buổi tiệc tùng, khiêu vũ linh đình. khách mời là những ông Đốc, bà Tham, quan Tây, quan Việt… trong quân đội Pháp và Việt Nam mới thành lập.

Chúng tôi thực sự định cư tại Hà nội từ đó! Với khoảng 4 năm trước khi di cư vào Nam (1954 ), dù đã bước vào tuổi đi học nhưng tôi vẫn hoàn toàn xa lạ với trường lớp. Hàng ngày tôi cũng như những đứa trẻ khác trong dãy nhà tự tìm lấy nguồn vui để chơi đùa với nhau, trong khi cha mẹ phải lo toan những công việc không có giới hạn thời gian cho chủ nhân. Trong khoảng thời gian đó tôi đã có hai người bạn đầu tiên trong đời. Cũng giống như tất cả sự quen biết, gần gũi nhau của những đứa trẻ khác, chúng tôi sống gần nhau, hàng ngày chơi đùa với nhau rồi dần dần trở nên thân thiết. Hai người bạn này đã khắc sâu vào trí nhớ tôi những dấu nhấn rất đậm vì cá tính của họ cũng như những biến chuyển cuộc đời họ khi trưởng thành mà người ta gọi là định mệnh. Bài viết này như một sự hoài nhớ của tôi dành cho họ và cũng muốn nói lên một trong hàng trăm, hàng ngàn dạng thức bi thương của cuộc sống trong một nước Việt Nam đói nghèo và trầy trụa với chiến tranh ngày đó.

Hiền, người bạn thứ nhất

Hiền, tên người bạn, anh ta hơn tôi 2 tuổi, con trai lớn của ông Quế, người Hà Nam, một tỉnh nhỏ, nghèo phía nam sát cạnh Hà nội. Cũng vì loan ly,  gia đình ông Quế phiêu bạt lên Hà nội từ năm 1950 rồi cũng vì đưa đẩy ông Quế cùng nhập ngũ với Bố tôi,  làm lính hầu cho ông quan Năm và cùng sống trong dãy nhà phía sau của căn biệt thự. Hiền có cô em gái tên Yến kém tôi 2 tuổi. Mẹ tôi cho biết trước khi lên Hà nội bà Quế có bầu đứa con thứ 3, trong một lần chạy loạn bị tai nạn đường thuỷ nên bị sẩy thai và từ đó bà Quế mất khả năng sinh sản.

Trong gần 4 năm trời tại Hà nội, tôi và Hiền rất thân thiết nhau, gần như hàng ngày tôi đều theo Hiền đi chơi. Có lẽ vì gia đình Hiền sống gần và thường lên Hà nội kiếm sống nên Hiền biết khá nhiều về đường phố, lối sống con người của Hà nội. Chính cũng vì theo Hiền lang thang trong suốt khoảng thời gian ở Hà nội, trước khi di cư vào Nam, tôi đã biết một phần nào của Hà nội. Những địa danh nổi tiếng trong khu phố cổ  Hà nội, với những căn nhà nhỏ bé chen chúc xếp cạnh nhau như tổ chim bồ câu.Cả những di tích, địa danh như Hồ Hoàn Kiếm, tháp Rùa, đền Ngọc Sơn, Tháp bút ,chợ Đồng xuân, nhà thờ Lớn, Bưu điện… (quận Hoàn Kiếm ngày nay) là những nơi, gần như hàng ngày tôi theo Hiền lê lết tại đó như những đứa trẻ không nhà.

Không xa khu phố cổ, một khu vực thoáng mát, đường xá rộng rãi, xanh mướt với những hàng cây me, cây sấu to lớn trồng dọc lề đường, đây là khu sang trọng nhất của Hà nội với những dinh thự to lớn dành cho những người Việt hay Pháp có danh vọng trong xã hội sinh sống.( quận Ba đình ngày nay). Nơi đây, dù không ồn ào, vui thú như khu phố cổ nhưng thỉnh thoảng Hiền cũng dẫn tôi đến đó lang thang. Nhờ vậy tôi cũng biết tí chút về chùa Một Cột, Văn Miếu Quốc Tử Giám, chùa Trấn Quốc, một trong vài ngôi chùa cổ xưa nhất Việt Nam tọa lạc trên một khu đất nằm cạnh con đường Cổ Ngư râm mát đẹp đẽ, con đường chia cách hồ Trúc Bạch với hồ Tây…

Hiền cũng dẫn tôi đến phố Khâm Thiên, nơi chốn ăn chơi , trác táng của Hà nội, ngày đó người ta gọi là phố Cô Đầu. Tại đây có những nhà hàng khiêu vũ, cờ bạc, đĩ điếm hay hút thuốc phiện…Chung quanh của khu phố bệnh hoạn này là những khu sình lầy hay khu đổ rác của thành phố. Cư dân tại đây từ tứ xứ di cư đến Hà nội kiếm ăn hay tỵ nạn chiến tranh, phố Hàng Bột nơi gia đình tôi cư ngụ lúc mới trôi dạt lên Hà nội cũng rất gần khu tối tăm, bệnh hoạn này.

Trong khoảng 4 năm gần gũi, lang thang hàng ngày tại Hà nội với người bạn đầu đời, rất khôn ngoan và lanh lợi đó, tôi đã có biết bao nhiêu kỷ niệm vui buồn khắc sâu vào ký ức. Có lẽ cho đến ngày xuôi tay nhắm mắt tôi cũng không bao giờ quên được anh ta.

Nhiều lần hai chúng tôi chán câu cá dưới bóng mát của những khóm liễu rũ bên cạnh hồ Hoàn Kiếm, Hiền dẫn tôi lang thang dọc theo bờ hồ, hai đứa chỉ trỏ đếm những cặp tình nhân, Tây cũng như Ta thân thiết bên nhau đi dạo bên cạnh bờ hồ. Đôi lần, Hiền bảo tôi đứng đợi còn Hiền lăng quăng đến gần những cặp tình nhân đang ngồi hóng mát trên những ghế đá hay đang đi dạo … Nói gì đó với họ, tôi hoàn toàn không biết. Nhưng một lúc sao Hiền trở lại , mang cho tôi một vài miếng kẹo kéo hay một gói bắp rang. Có chút ngạc nhiên, tôi hỏi nhưng không bao giờ có câu trả lời rõ ràng mà Hiền chỉ cười, ra dấu dục tôi ăn đi.

Có một lần, vào ngày chủ nhật, trời đã xâm xẩm tối, chúng tôi đến phố Khâm Thiên, đúng lúc băng qua đường thì một chiếc xích lô chở một  “ ông tây “ đâm sầm vào, làm tôi và Hiền ngã. Trong lúc tôi đau đớn, nằm lăn trên đường nhựa, Hiền đã lồm cồm đứng bật dậy, chỉ tay vào người phu xích lô với vẻ giận dữ trách mắng ông ta, rồi quay sang ông tây, Hiền làm ra vẻ đau đớn , khoa tay ra hiệu và nói gì đó với ông ta… Thành thật tôi chẳng biết Hiền nói cái gì và có phải là tiếng Tây hay không ? Nhưng ông Tây quay nhìn người phu xích lô ra vẻ bực tức, giơ tay lên tát một cái khá mạnh vào mặt anh ta rồi vẫy tay ra vẻ xua đuổi anh ta. Người phu xích lô sợ hãi, vội vàng lên xe và đạp nhanh như trốn chạy, không dám đòi tiền xe. Ông Tây nhìn chúng tôi , đưa tay vỗ nhẹ lên đầu hai chúng tôi ra vẻ an ủi rồi móc túi ra đưa cho Hiền tờ giấy bạc. Không một tí lưỡng lự, rất nhanh Hiền cầm lấy tờ giấy bạc, quay ra nói câu gì đó ( tôi cũng chẳng biết Hiền nói tiếng Tây hay tiếng Việt ?) với ông Tây, rồi kéo tay tôi đi thẳng. Ngày hôm đó, dù trời đã tối, thay vì phải về nhà để ăn bữa tối nghèo hèn như mọi ngày, tôi đã có những món ăn vặt no nê từ những quán trên lề đường nhờ đồng bạc mà Hiền đóng kịch thành công.

Một vài lần khác cũng trong phố Khâm Thiên, Hiền dẫn tôi đến những căn nhà có cơ sở nhầy đầm. Hiền bảo tôi  đứng nép vào bên cửa, rồi bỏ tôi đi đâu đó. Tôi nhìn vào bên trong, vài hàng ghế kê sát vách trong căn sảnh khá rộng có những cô vũ nữ diêm dúa ngồi chờ khách. Thỉnh thoảng vài người đàn ông tây cũng có, ta cũng có đến gần hàng ghế, chỉ vào cô nào, cô gái đó đứng dậy và theo ông khách ra sàn nhẩy. Tôi có cảm tưởng Hiền khá quen biết nơi đó, thỉnh thoảng có cô vũ nữ hay người đàn ông (chắc là người làm của vũ trường ?) gọi Hiền đến gần và sai bảo làm việc gì đó cho họ, ngày hôm đó tôi lại được Hiền cho ăn những món ăn đường phố.

Rồi ngày di cư, gia đình Hiền cùng với nhiều gia đình khác, kể gia đình tôi sống trong dãy nhà lính hầu được theo chủ nhân vào Nam. Tôi nhớ chính xác thời gian vài ba tháng đầu tiên gia đình Hiền cũng hội tụ với gia đình tôi trong những căn nhà cất tạm phía sau của một dinh thự rất rộng của chủ nhân ông trên đường Lê văn Duyệt ( nay là đường Cách mạng tháng tám ) gần trường học công giáo Thánh Mẫu. Nhưng sau đó gia đình tôi theo chủ nhân lên Đà lạt làm rẫy, gia đình Hiền không đi và làm gì, đi đâu tôi không biết. Khoảng một năm ở Đà lạt, gia đình tôi dọn về lại Saigon có lẽ vì chủ nhân và nhóm thân cận bị vướng vào lao lý vì lem nhem, ăn chặn tiền cứu trợ của dân di cư. Nhưng chỉ nhóm cận thần bị ra toà, lãnh án tù còn chủ nhân nhanh chân trốn sang Pháp lưu vong.

Suốt nhiều năm sau đó, tôi không gặp và biết tin tức gì về gia đình của Hiền. Nhưng vào khoảng năm 1962, cả Saigon rúng động với một bản tin giết người tàn bạo xảy ra tại Gia Định. Người vợ cả đã xô người vợ hai khi bà ta đang có thai, gần ngày sinh đẻ xuống cái giếng sau nhà. Người chồng trong vụ án là ông Quế, kẻ sát nhân là mẹ của Hiền. Tôi chỉ biết có vậy về gia đình Hiền qua bản tin kinh hoàng đó mà thôi.

Mãi đến năm 1966 khi vừa lên đại học, một lần tôi theo mẹ tôi lên chợ Cầu Ông Lãnh mua chuối về bán tại lề đường Tô Hiến Thành. Trong lúc tôi cùng với mẹ và người phu xe đang chăm chú vào việc chất những buồng chuối lên xe ba gác. Thình lình có người vỗ vào vai tôi với giọng ngạc nhiên, vui mừng:

-Tê, phải không

Tôi giật mình quay lại. Đứng trước tôi một thanh niên vóc dáng khá bặm trợn, vài hình xăm trên cánh tay, lồng ngực, đúng dáng dấp một kẻ giang hồ. Anh ta chau mày nhìn tôi kỹ hơn, trong khi tôi vẫn còn lạ lùng không biết anh ta là ai và tại sao biết cái tên “quê mùa, thời ấu thơ” của tôi. Hình như biết tôi chưa nhận ra mình, anh ta vỗ mạnh hơn vào vai tôi, rất thân thiện anh ta nói:

-Hiền, ở Hà Nội ngày xưa đây! Tê, mày không nhận ra tao hả?

Lúc này thì tôi không còn một tí gì bỡ ngỡ, lạ lùng nữa thay vào đó là sự mừng vui vô cùng. Một tay nắm chặt lấy cánh tay của Hiền, tay kia vỗ liên hồi vào vai người bạn ấu thơ :

-Nhận ra rồi. Đúng là thằng Hiền, mày thay đổi quá nhiều.

Rồi cứ thế, tôi bỏ cả việc giúp mẹ chất chuối lên xe để hàn huyên với Hiền. Đại khái Hiền cho tôi biết sau khi vào Nam được vài năm, ông Quế, bố của Hiền giăng díu với một cô gái trẻ,  cô ta có bầu và đem đến vụ án ghen tuông tàn bạo như báo đã đăng. Bà Quế sau khoảng hơn sáu năm tù tội, ra tù, bà trở về nhà rồi bị bệnh liên miên và đã mất hơn một năm trước. Hiện nay ông Quế về sống với Yến, em gái của Hiền bên bờ bên kia Rạch Bến Nghé, đối diện với chợ Cầu Ông Lãnh . Hiền không có chỗ cư trú chắc chắn, thỉnh thoảng tạt về nhà gặp bố và em gái. Dù được hoãn dịch gia cảnh vì là con trai độc nhất trong gia đình, nhưng khoảng 3 năm trước Hiền theo chúng bạn đầu quân vào binh chủng nhảy dù, nhưng chỉ được một thời gian ngắn rồi đào ngũ trở về đời sống dân sự. Hiện nay, Hiền cùng nhóm bạn xa xưa lo việc bảo kê cho những nhà buôn trong khu chợ Cầu Ông Lãnh cũng như cho những tàu thuyền chở hàng từ các tỉnh miền đồng bằng Cửu Long đến Saigon bằng rạch Bến Nghé.

Lúc kèm xe chuối về nhà, Mẹ tôi cho biết cũng rất ngạc nhiên khi nhận ra Hiền, một tên trùm du đãng tại chợ Cầu Ông Lãnh, dù đã gặp nhiều lần nhưng mẹ tôi hoàn toàn không biết đó là Hiền, thằng bé từng là bạn ấu thơ của tôi xa xưa. Mẹ khuyên tôi không nên đính dấp hay liên hệ với Hiền để tránh những rắc rối.

Sau đó thỉnh thoảng tôi cũng gặp lại Hiền trong những lần đi mua chuối với mẹ. Hiền rất vui mừng mỗi khi gặp tôi, lần nào cũng kéo tôi ra quán ăn ở đầu chợ, cho tôi ăn uống no nê nhưng không một lần nào Hiền để tôi trả tiền. Tôi vẫn khắc sâu trong trí nhớ, một lần ăn cơm với Hiền trong quán. Đưa ánh mắt nhìn xa xa ra vẻ suy tư với giọng buồn buồn, Hiền nói như than thở với tôi:

-Thành thật tao rất quý mến và cảm phục mày! Một đứa bé nghèo hèn, lang thang  ở Hà nội, không biết gì đến sách vở trường học mà ngày nay, mày đã vươn lên trong môi trường đại học. Còn tao và cả con em gái tao nữa, vẫn chẳng ra gì! Tương lai thì mờ mịt, việc làm kiếm sống thì chẳng giống ai.

Buông tiếng thở dài, buồn bã Hiền nói tiếp:

-Có lẽ một phần vì bố mẹ tao đã không hiền thục, hy sinh và chịu đựng như bố mẹ mày để giúp anh em chúng tao có niềm tin, động lực để vượt khó, vươn lên như mày. Nhưng nghĩ kỹ, phần lớn vẫn là do anh em tao ham chơi, buông thả theo vật chất. Đua  đòi chúng bạn mà không nghĩ đến việc học hành, xây dựng tương lai! Bây giờ, tất cả đã muộn màng rồi.

Tôi im lặng, cảm thông nỗi buồn của thằng bạn thuở ấu thơ. Với chút suy nghĩ tôi chậm rãi trả lời:

-Có lẽ mày nói đúng. Anh em chúng mày đã trưởng thành, con đường trở về với sách vở, tìm đường tiến thân đã qua rồi. Nhưng theo tao, đó không phải là con đường duy nhất. Hãy tìm một con đường khác hợp với khả năng, hoàn cảnh để đi lên, nó thực tế và tốt hơn là buông xuôi, bị động theo những cái mà mình đã thấy là sai lầm.

Suy nghĩ một chút, tôi nói tiếp:

-Tại sao mày không nghĩ đến tìm cách mở một cơ sở buôn bán hay sửa chữa xe cộ, máy móc….

Hiền cười nhẹ thành tiếng, ngắt lời tôi:

-Mày tưởng bước vào thương mại, tạo một cơ ngơi kiếm sống với bàn tay trắng và hoàn toàn mù mờ về chuyên môn như tao, trong một xã hội đầy rẫy bấp bênh vì chiến tranh dễ lắm sao?  Nói rất thật với mày, nếu tao không hư hỏng, bỏ ngang việc học, có được tấm bằng tú tài, thành một ông sĩ quan có lẽ cuộc đời tao sẽ khác với hiện tại, một kẻ đâm thuê, chém mướn.

Dừng lại một tí chút, đưa bàn tay thân thiện nắm lấy cánh tay tôi, với vẻ rất chân thành Hiền nói tiếp:

-Tao mong mày học hành thành tài, tương lai làm ông này, ông kia, khi tao già, không còn gân sức để làm cái việc không giống ai này nữa. Mày hãy tìm cho tao một việc làm, việc gì cũng được. Dù là tên coi nhà, đóng cổng cho mày, tao vẫn vui lòng, không một tí than van . Ít ra tao biết mình dốt nát nên phải làm cái việc thấp hèn nhưng vẫn có niềm vui và hãnh diện vì được làm cho thằng bạn thân thiết của mình.

Thời gian trôi qua, không lâu sau đó, với sự tính toán trong chuyên môn, tôi đã tạo dựng được một cơ ngơi chăn nuôi heo gà nho nhỏ cho gia đình ở Bà Quẹo. Mẹ tôi bỏ việc bán chuối cực nhọc, về làm việc cho gia đình. Tôi và Hiền không có dịp gặp nhau nữa. Nhưng đến năm cuối đại học, không biết vì lý do gì, bố tôi rủ tôi cùng  đến thăm ông Quế, người bạn cố tri mà nhiều chục năm bố tôi không gặp.

Đứng trước căn nhà  gạch 2 tầng khá khang trang, nằm trên con đường lộ chạy dọc theo rạch Bến Nghé,  chúng tôi, có chút ngại ngần không dám bước vào vì đó là một quán “đèn mầu”. Nhìn vào bên trong, thấp thoáng vài ba người khách đàn ông ngồi quanh những chiếc bàn thấp chân đang lơi lả với vài cô gái phấn son loè loẹt. Có lẽ vì chúng tôi đi qua đi lại nhiều lần đã làm cho người phía trong quán chú ý. Một phụ nữ trẻ, trang phục khá hở hang với thái độ không vui từ trong tiệm đi ra. Nhìn bố con chúng tôi, cô ta hỏi những câu rất xấc xược như xua đuổi. Nhưng sau khi nghe chúng tôi trả lời, cô ta giương mắt nhìn, với tí chút vui mừng, ngạc nhiên, cô ta nói:

-À, bác Tiêng, anh Tê phải không? Cháu là Yến đây.

Có lẽ đoán được mục đích của chúng tôi và đã quen thuộc với những phiền phức từ những ông bạn già luộm thuộm, nhà quê của bố. Yến chẳng cần để chúng tôi mở lời, cô ta đưa tay chỉ vào phía sau nhà, nói tiếp:

-Bác và anh Tê cứ đi thẳng xuống căn phòng gỗ cuối cùng xây trên con rạch, Bố cháu đang ở đó.

Theo chỉ dẫn của Yến, chúng tôi đi sâu vào phía sau, qua một căn phòng mịt mù khói thuốc, sát phía sau nơi bán cà phê, đang ồn ào những tiếng chửi thề. Nơi đó có khoảng  5 ,6  người đang quây quần nhau trên chiếc phản gỗ đánh bạc. Bố con chúng tôi im lặng, đưa mắt nhìn nhau như đã hiểu rõ cuộc sống của gia đình ông Quế. Tiếp tục đi đến phần cuối của căn nhà. Sau vài tiếng gọi, gõ cửa của bố tôi, ông Quế hiện ra, mời chúng tôi vào. Hoàn cảnh nghèo túng của ông Quế hiện ra trước mắt chúng tôi, một chiếc giường cũ kỹ với chiếc bàn gỗ lỏng khỏng, trên đó có chiếc điếu thuốc lào nhem nhuốc cùng vài cái ly uống nước bằng sành cáu đen. Tuy nhiên căn phòng khá mát mẻ nhờ gió thổi từ con rạch nước phía sau, xuyên qua từ những khe hở trên vách gỗ .

Ông Quế có vẻ già, lọm khọm và yếu hơn bố tôi nhiều dù ông ta kém bố tôi vài ba tuổi. Sau một lúc hỏi thăm, nói chuyện. Tôi đã thẩn thờ buồn bã khi ông Quế cho biết khoảng gần một năm trước, dù được hoãn dịch nhưng Hiền vẫn xung phong vào Thuỷ quân lục chiến và đã tử trận trong một lần hành quân tại Kiến Hoà. Hiền chết đi, ông đã mất nơi nương tựa vào nguồn giúp đỡ từ thằng con trai duy nhất, thay vào đó ông phải nhận lấy nỗi cô đơn buồn tẻ . Hiện nay ông phải sống nhờ vào sự cưu mang của Yến, nhưng hình như tình bố con cũng không có gì êm thấm lắm!

Buông tiếng thở dài, nói vài câu an ủi, chia buồn với ông Quế, tôi im lặng dành riêng ít phút để nhớ đến người bạn xa xưa. Lại thêm một người bạn nữa ra đi, để lại cho tôi những suy tư buồn bã vì nhớ thương.

Nhiều người nói với tôi,  trong một đất nước ngập sâu trong chiến tranh, bom đạn như Việt Nam, người ta sẽ dần dần chai sạn với những tin buồn chết chóc hay thương tật từ những người thân thương, bất hạnh của mình mang đến. Nhưng với tôi, trong nhiều năm qua, cứ vài ba tháng tôi lại nhận được những tin không vui, chết chóc từ bạn bè, người thân. Nhưng hình như nó vẫn chưa làm cho lòng tôi vô cảm, không đau buồn được. Những tin buồn đó vẫn làm tôi ngẩn ngơ, lịm người đôi khi làm cho tôi chảy nước mắt khi nhớ đến những kỷ niệm mà họ đã có với tôi lúc còn sống.

Hình ảnh của Hiền trở về trong trí nhớ tôi. Một thằng bé khôn lanh đã dẫn dắt tôi lang thang nhiều năm trời trên phố phường Hà nội. Đã láu lỉnh tìm được những đồng tiền từ những chốn ăn chơi. Mua cho tôi những chiếc bánh đa, khúc kẹo kéo, túi bắp rang …Những món ăn đường phố của Hà nội xa xưa, nơi tôi đã phải sống gần trọn tuổi ấu thơ đói khổ của mình.  Có lẽ, nếu không có Hiền thì chẳng bao giờ tôi biết đến mùi vị của những món ăn đó vì nó quá xa bàn tay nghèo khổ của tôi ngày đó.

Trong cái cảm giác buồn thương nhớ đó, hình ảnh của lần Hiền kéo tôi vào quán ở đầu chợ Cầu Ông Lãnh lại hiện về trong trí nhớ của tôi. Trong bữa ăn, với giọng rất buồn Hiền đã bộc lộ với tôi tất cả những đau xót, chán chường khi nghĩ về mình, thân phận của một kẻ đâm thuê, chém mướn! Hiền đã nhìn vào con đường học hành tiến thân của tôi trong ước mơ kèm theo hối tiếc. Hiền mong ước, chúc tụng cho tương lai của tôi trở thành ông này, ông nọ để giúp cho Hiền có một công việc kiếm sống lúc về già, dù là một tên gác cổng cho tôi. Hôm nay, lời chúc tụng và dự tính tương lai đó, tất cả chỉ còn là ảo tưởng, đùa vui khi Hiền đã ra người thiên cổ. Nhưng với tôi hình như vẫn còn cái gì đó buồn đau, ân hận vì tôi sẽ không bao giờ có dịp trả lại tình thân cho người bạn thuở ấu thơ của mình nữa!

(còn tiếp)

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: