Ngày thơ ấu trong con xóm nhỏ, vào những đêm sáng trăng, tôi và mấy đứa nhóc cùng tuổi thường tụ tập nô giỡn, đùa nghịch và nghêu ngao một bài hát rất thịnh hành trong đám con nít thuở đó: “Ò e Rô-be đánh đu, Tặc-dăng nhẩy dù, Zô-rô bắn súng; chết cha, con ma nào đây, thằng Tây hết hồn, thằn lằn cụt đuôi”.
Cả lũ hát thì cứ hát chứ không biết xuất xứ của bài nhạc này từ đâu ra. Có người cho rằng quái kiệt Trần Văn Trạch là tác giả lời Việt hài hước này. Sau này lớn lên được biết đây là một bản nhạc nổi tiếng khắp thế giới có nguồn gốc từ Scotland với tựa đề Auld Lang Syne.
Auld Lang Syne được phổ nhạc từ một bài thơ tiếng Scotland cổ của Robert Burns năm 1799. Bài nhạc dịch ra tiếng Anh “In the days gone by”, tiếng Pháp “Joyeux Au Revoir” và hơn bốn mươi tiếng khác trên hoàn cầu. Auld Lang Syne có nghĩa là “Những ngày xa xưa đã mất”. Bài hát này thường được ngân nga trước khi chia tay nhau sau buổi tiệc Giao thừa tiễn biệt năm cũ và chào đón năm mới của người Âu châu.
Bài nhạc này đã đến vùng Bắc Mỹ lần đầu qua hệ thống truyền thanh vào đêm Giao thừa năm Đại khủng hoảng kinh tế (Great Depression) 1929, do ban nhạc Royal Canadians của nhạc trưởng Guy Lombardo hòa tấu. Nó được yêu thích ngay lập tức. Từ đó hằng năm vào đêm Giao thừa, khi quả cầu tròn lấp lánh từ từ hạ xuống tại Times Square-New York, Auld Lang Syne luôn là giai điệu đầu tiên được tấu lên đón chào năm mới.
Tháng Ba 1975. Ban Mê Thuột thất thủ. Cuộc di tản bi thảm của quân dân VNCH trên tỉnh lộ số 7 làm chấn động dư luận trong và ngoài nước, nhưng Sài Gòn vẫn nhởn nhơ vui sống. Một buổi chiều mưa lất phất rơi, buồn vô hạn, tôi và em sau khi lang thang trên đường Lê Lợi lùng tìm những tạp chí, sách vở cũ, ghé vào Cine Rex. Rạp này hôm đó chiếu lại một cuốn phim đen trắng cũ. Phim Vũ điệu trong bóng mờ (“La valse Dans L’ombre”) với hai tài tử Robert Taylor và Vivien Leigh.
Nội dung cuốn phim là một chuyện tình buồn xảy ra trong Đệ nhất Thế chiến. Cảm động nhất là cảnh trong đêm hẹn hò đầu tiên. Hai người yêu nhau trước khi giã từ đã khắng khít dìu nhau theo cung điệu Auld Lang Syne trong lúc từng ngọn nến tắt dần khi nốt cuối cùng của bài nhạc vang lên. Trong bóng tối chỉ còn lại đôi mắt sáng long lanh đắm đuối nhìn nhau. Đôi mắt của Robert Taylor và Vivien Leight, hay là đôi mắt của em, của tôi và nụ hôn vội vàng…
Giữa Tháng Tư 1975, Sài Gòn rúng động lên cơn sốt. Đường phố tràn ngập người di tản từ Huế, Đà Nẵng, Ban Mê Thuột. Những người với cặp mắt hãy còn thất thần kể lại nỗi kinh hoàng, chết chóc vượt ngoài sức tưởng tượng. Hầu hết nghĩ rằng họ đã may mắn được ơn trên cứu thoát. Trong số những người may mắn, có những người thân thuộc của các bạn bè miền Trung. Có Thiếu tá Nguyễn Kim Thập, cậu tôi, thoát về từ Nha Trang; và Thiếu tá Vũ Ngọc Liễn, em họ tôi, di tản về từ Phan Rang. Liễn là một trong bốn phi công A37 thuộc Phi đoàn 524 Thiên Lôi, mà tối 28 Tháng Tư từ Tân Sơn Nhứt đã bay ra Phan Rang phá hủy phi đạo và bộ chỉ huy cộng sản đang chiếm đóng để trả đũa và ngăn chặn một Nguyễn Thành Trung thứ hai…
Còn nhiều, còn nhiều đau thương khác nữa. Mỗi gia đình một nghịch cảnh, mỗi cá nhân một thảm kịch… Bầu trời Sài Gòn trong thời gian này không ngày nào có nắng. Mây màu chì xám xịt giăng mắc thật thấp, cơ hồ muốn nhỏ lệ thương đau. Trong không khí nhuốm màu ly biệt, mọi người trong thành phố như những con thú có cảm giác một cơn địa chấn, một cơn hồng thủy long trời lở đất đang ùa đến nhưng không có cách nào vượt thoát. Tôi không nói nhưng cũng mơ hồ cảm nhận: “Em ơi, không biết ngày mai sẽ ra sao?”
Những ngày này với những đêm mất điện, ngoại ô Sài Gòn không đèn tối đen như mực. Chúng tôi tay trong tay, ngồi bên nhau trên sân thượng. Đây đó vài đóm hỏa châu bừng sáng rồi vụt tắt. Vùng ven đô chớp lòe ánh sáng rồi tiếng hỏa tiễn nổ bùng đây đó. Em và tôi nhìn nhau im lặng. Không có rượu vang như trong cảnh đêm cuối năm giữa hai người yêu nhau trong cuốn phim. Chỉ có ánh nến lập lòe sáng long lanh trong đôi mắt. Và đôi môi em nồng nàn gợi cảm.
Bóng hai chúng tôi chập chờn trên tường vôi trắng. Giai điệu Auld Lang Syne trong thời gian này sao mà ngậm ngùi, tha thiết. Hình ảnh Robert Taylor và Vivien Leigh đêm cuối dìu nhau theo điệu valse nhạt nhòa. Họ khiêu vũ trong bóng mờ trước khi mất nhau sao mà gần gũi. Gần gũi như hai chúng tôi với những môi hôn cuối cùng trước khi giã từ. Mùa Xuân năm đó, với cuộc đổi đời bi thảm, cuộc tình chúng tôi cũng mờ dần như những ngọn nến từ từ vụt tắt cuối khúc hòa tấu. Em và tôi đã mất nhau trong đời…
Đêm cuối năm 1975, tôi tha hương ngồi cô độc trong căn phòng nhỏ vùng Bắc Mỹ. Trong lò sưởi, những khúc củi cháy đỏ rực kêu lách tách, bắn ra những tia lửa sáng ngời. Ngoài trời trắng xóa, mưa tuyết lạnh lùng rơi. Gió hú từng cơn làm tái tê lòng người. Còn đâu mùa Xuân với mai vàng và nắng đào ấm áp có em trong đời. Tôi tương tư về em da diết khôn nguôi. Lạnh ngoài trời và lạnh cả trong hồn. Tôi có cảm tưởng nỗi nhớ nhà, nỗi đau khổ trong tim có thể làm tôi lịm chết.
Không có người đối thoại. Tôi bật tivi. Thời gian này chưa có internet, smart phone, phim ảnh trên VHS hoặc DVD. Giải trí chỉ có những chương trình trên tivi. Đêm nay, tivi chiếu lại một phim đen trắng có nhan đề: “It’s a wonderful life” với James Stewart và Donna Reed.
Trong phim, James Stewart thủ vai chàng George Bailey tốt bụng đang gặp những khó khăn trong đời. Chàng chán chường đến nỗi không còn muốn sống nhưng được thiên thần bản mệnh đến cứu rỗi. Thiên thần bản mệnh của chàng đã soi sáng chỉ dẫn những gì sẽ xảy đến nếu chàng không hiện hữu trên cõi đời. Cảnh cuối là cảnh xúc động nhất khi chàng George Bailey-No man is a failure who has friends với vợ con bên cạnh, tay trong tay cùng bạn bè, người thân yêu cao giọng hát bài Auld Lang Syne chào mừng Giáng sinh và năm mới.
Cùng một bài hát, cùng một giai điệu nhưng trong cuốn phim này, bài Auld Lang Syne đã đem lại cho tôi một xúc cảm khác. Một xúc cảm lạc quan, tin tưởng vào tình người, tình bạn và cuộc đời… Ngoài trời dường như tuyết đã ngừng rơi, gió đã ngừng thổi. Dường như tâm trạng đang chán đời của tôi cũng xoay chiều. Thiên thần bản mệnh của tôi hiện đến đúng lúc tôi cần nhất trong đêm cuối năm…
Bây giờ mỗi lần nghe lại bài Auld Lang Syne, lòng tôi đôi khi vẫn rộn rã với: “Ò e, Rô-be đánh đu, Tặc-dăng nhẩy dù…” vô tư nghịch ngợm như ngày xưa còn bé. Bài hát đã nhắc nhở tôi những kỷ niệm êm đềm, những người muôn năm cũ là những gì vô giá, là nền tảng cho tương lai trước thềm năm mới.
Nhưng có nhiều đêm cuối năm tha hương nơi xứ người, giai điệu trầm bổng của bài nhạc đã khơi dậy trong tôi nỗi ngậm ngùi miên man. Vì trong giai điệu Auld Lang Syne chứa chất đầy hình ảnh những ngày tang thương cuối cùng của miền Nam. Có ánh mắt thẫn thờ dưới vành khăn tang của cô nhi, quả phụ. Có giọt nước mắt uất hận, lã chã tuôn rơi trên khuôn mặt phong trần của những người lính. Có tiếng gọi nghẹn ngào của người đi, kẻ ở nơi bến tàu, sân bay. Những ngày cả nước u ám chìm vào bóng đêm: Có tôi và em bên nhau trên sân thượng. Bóng hai chúng tôi mờ ảo chập thành một trên tường vôi trắng. Đôi mắt em u uẩn ngấn lệ sáng long lanh dưới ánh nến vẫn còn hằn sâu trong lòng tôi cho đến bây giờ…
“Giờ đây anh em chúng ta giã từ, lòng còn lưu luyến.
Cách xa nhưng ta hằng mong rồi đây có ngày nhiều lần gặp nhau”
(Auld Lang Syne, Bài ca tạm biệt – lời Thế Lữ)