Bún nước lèo thời gian

Xe đò từ Sài Gòn xuống được Trà Vinh thì trời đã chập choạng tối. Ông biết được điều đó nhờ bảng hiệu đèn sáng rực “Chào mừng quý khách đến tỉnh Trà Vinh” trên cổng chào to đùng đập vào mắt. Ông thở phào. Chịu đựng vài tiếng đồng hồ nhức lưng, rồi cuối cùng mình cũng đã về tới quê hương.

Thực ra Trà Vinh không quá xa Sài Gòn, độ chừng chưa đầy hai trăm cây số;nhưng trước đây, khi chưa nghỉ hưu, ông quanh năm suốt tháng còn chưa ra được đến cái chợ nhỏ gần nhà, chứ đừng nói việc đi xa như vậy.

Công việc như một guồng quay vô tận cuốn người ta đi theo mải miết. Tất bật đi làm, tất bật xoay sở, tất bật củng cố các mối quan hệ, cấp trên, cấp dưới, đồng nghiệp, gia đình…cùng các mối quan hệ xã hội khác làm ông mệt mỏi suốt mấy chục năm. Rồi một ngày cầm trên tay quyết định nghỉ hưu, người ông vừa hụt hẫng, vừa nhẹ tênh như không còn chút sức lực nào. Ông nhớ từng nghe kể về những trường hợp về hưu mà không thích nghi được với trạng thái “không đi làm”;đã dẫn đến nhiều hậu quả đáng tiếc như:trầm cảm, cáu gắt, chết sớm…

Bởi vậy, khi nghe các con khuyên nên “chữa lành” bằng cách đi du lịch, trước tiên là về thăm lại quê hương, ông gật đầu ngay.

Nhiều chục năm xa quê hương, căn nhà nhỏ mà ông đã sống một thời tuổi thơ đã được bán đi từ lâu trong một thời khắc khó khăn của cuộc sống. Và ở đó ông cũng không còn người thân quen nào. Nên giờ, ông không còn nơi để về, không có chỗ trú đêm nào ngoài một nhà trọ cho thuê nằm trong một con hẻm nhỏ xa khu trung tâm của tỉnh lẻ.

Và dĩ nhiên là đã lâu lắm rồi không xa nhà đi ngủ chỗ lạ nên ông trằn trọc mãi vẫn không sao ngủ được. Ông ra quầy tiếp tân mua vài lon bia uống cho dễ ngủ.

***

Có vẻ trời đã sáng, bởi ông nghe tiếng nhộn nhịp lao xao bán hàng ngoài đường vọng vào phòng. Ông thức dậy, mặc quần áo chỉnh chu rồi nhẹ nhàng đi bộ ra khỏi phòng trọ. Đường phố quê buổi sớm không đông đúc như ở Sài Gòn. Trời buổi sớm mát, lại đã lâu không đi tản bộ nên ông vui chân đi mãi.

Con đường này trông quen thuộc lắm, mặc dù ông đã vài chục năm không về quê. Rồi ông ngẩng đầu lên cao, nhìn thấy cái cổng với tấm bảng sơn son thiếp vàng theo kiểu cũ, hàng chữ “Đình Thanh Lệ”.

Cảm xúc ùa về. Đó là khu vực gần nhà ông khi xưa, và ngôi đình là dấu mốc quan trọng không thể nào quên được; bởi cả tuổi thơ của ông dường như gắn liền với nhiều sự kiện của ngôi đình này.

Hồi đó, trước 1975, ông hãy còn là đứa nhỏ, không nhớ rõ là bao nhiêu tuổi, nhưng ông lại nhớ chính xác căn nhà mình nằm phía sau đình mà thời thơ ấu của mấy anh chị em ông đều quanh quẩn ở đó.

Căn nhà-thực chất chỉ có phía trước là làm bằng tường bê tông theo chữ L,cửa gỗ, mái nhà lợp bằng tole nóng, và bốn phía là vách bằng lá chằm (một loại vật liệu xây dựng nhà quen thuộc của người dân các tỉnh miền Tây, khu vực đồng bằng sông Cửu Long).Loại lá chằm này được làm từ lá của cây dừa nước, thanh cứng để giữ những tấm lá ốp lại cũng là từ thân nhánh cây dừa nước, kể cả loại dây để kết nối hai thứ đó thành tấm lá vẫn là xương lá tuốt ra thành sợi, nghĩa là tất cả đều từ tự nhiên, không hề có dây kẽm hay dây ni lông xen vào. Lá chằm dùng làm vách nhà được dân quanh vùng kêu bán từng “thiên” (1000 tấm), chớ không bán lẻ.

Tuỳ theo giá mà có loại lá chằm thưa hay khít để có thể dùng một mùa (mùa nắng mưa, chớ không tính theo năm) hay hai mùa, để phải tháo ra lợp lại. Ông nhớ có lần vách lá đã “thưa” mà mẹ ông chưa có tiền để lợp lại, nằm trong nhà có thể thấy ánh trăng rọi vào, hoặc buổi gần trưa, ánh nắng lọt qua các khe lá, tạo nên những đốm sáng li ti trên nền đất. Và nền đất là… ở nhờ của ông ba Hộ, một người giàu, có nhiều nhà đất trong khu vực đó. Ở quê, khái niệm “ở nhờ” khá quen thuộc, như sự chơn chất của người dân thời bấy giờ.

Hiện nay, nói “ở nhờ” không phải ai cũng hiểu, bởi mọi thứ đều được quy ra tiền, tính bằng tiền một cách đơn giản và lạnh lùng… nên khái niệm này đã lùi xa vào dĩ vãng. Rõ là ban đầu, mẹ ông mướn khoảnh đất trống để cất nhà, tiền đất trả hàng năm, nhưng sau này, lâu dần, không đủ tiền để trả, cộng thêm biến cố Ba mươi tháng Tư, khiến cả xã hội như lộn nhào, ai cũng nghèo như nhau, hoặc nghèo hơn nhau… nên “mướn đất” trở thành “ở nhờ” trên nền đất là đương nhiên.

Sát bên nhà ông là một miếng đất trống được chủ đất cho mướn trồng khoai mì và vườn chuối đủ các loại. Vốn trước đây trên đó là căn nhà của vợ chồng người Hoa mà sau mấy chục năm trôi qua, ông đã quên mất tên. Nhà có ba anh chị em. Người chị lớn bị bệnh động kinh bẩm sinh, ngày còn nhỏ cơn động kinh đột ngột đã khiến cô té vào bếp lửa đang nấu ăn. Một bên cánh tay trái bị cắt cụt đến tận vai và gương mặt phỏng nặng không thể hồi phục khiến cô trở thành nửa khùng nửa tỉnh.

Cô em kế may mắn lành lặn, mỗi ngày theo cha mẹ kéo xe nước đi “đổi nước ” kiếm sống. Hồi đó không có nước máy, nên đa phần các gia đình đều xài nước từ giếng tự đào. Các giếng này đều nằm xa khu dân cư, nên muốn có nước dùng, nhiều gia đình phải mua lại nước từ những người đi “đổi nước,” giá theo thỏa thuận. Xe chở nước chỉ là cái thùng phuy nằm vắt ngang trên hai bánh xe đạp cũ, phía trên giữa thùng phuy khoét một lỗ dành chỗ cho việc múc nước từ giếng đổ vào, phía dưới trước thùng phuy có phần nắp, nối với đoạn ruột xe đạp là thành nơi tháo nước ra để “đổi” cho khách hàng. Dĩ nhiên là nước “đổi” bằng… tiền. Và công việc đổi nước đã giúp gia đình này sống qua mấy chục năm. Khi hai vợ chồng người Hoa mất đi, cô con gái lành lặn duy nhất trong nhà đã nối nghiệp cha mẹ đổi nước suốt đoạn đời sau này.

Điều kỳ lạ là ông không nhớ nổi tên của bất kỳ ai trong gia đình đó, ngoại trừ người con trai út tên Tảo. Nhớ vì ông chứng kiến đám tang của anh Tảo. Người trai này bị bắt đi lính, rồi chỉ vài tháng sau, xác đã được chở về tận nhà. Một đám tang lặng lẽ, buồn thảm. Sau 1975 vài năm, gia đình ông dời xuống đường lộ gần cổng đình Thanh Lệ, ông-lúc đó là một thằng con nít đang độ tuổi đi học-ít quay trở lại xóm cũ nên không biết đoạn đời sau này của họ.

Kề với miếng đất ấy là phần hàng rào mỏng manh chia cách với phần đất của đình Thanh Lệ. Trông coi đình Thanh Lệ là nhà ông Tư Nhị. Ông vừa chăm sóc cúng đình vừa canh tác phần đất của đình. Thì cũng quanh quẩn trồng khoai lang khoai mì. Vợ ông là bà Tư Nhị gánh nước thuê cho cả xóm. Vợ chồng ông còn có một người con trai nuôi tên Thành ngoài 20 tuổi, cứ nhậu say là rượt ông bà chạy lòng vòng trong xóm. Người ta bảo con nuôi rất hay xảy ra tình trạng như vậy. Lao lực cực khổ, hoàn cảnh túng thiếu, cuộc sống bức bối nên gần như sáng nào ông Tư Nhị cũng oang oang chửi bới phông lông kẻ trộm cắp khoai lang ông trồng. Và cả xóm phải nghe.

***

Sân đình vắng tanh. Chắc là còn quá sớm. Ông ngồi bệt xuống nền xi măng, trời, nó vẫn phẳng lì như ngày xưa. Các đoạn ký ức tuổi thơ còn chưa kịp ùa về thêm thì ông đã nghe một giọng ồn ào:

“Ủa, thằng Cương, mày về hồi nào?”

“Trời ơi, anh Thưởng! Anh khỏe hả? Còn đi hát hông anh?”

Cương là tên ở nhà của ông hồi nhỏ. Chỉ người quen trong xóm mới biết cái tên này. Thưởng là con bà sáu Từ, nhà bà dựng căn chòi sơ sài sát bên đình, kiếm sống bằng nghề thu lượm ve chai. Anh Thưởng lớn hơn thằng bé Cương nhiều tuổi, nhưng không hiểu sao nhiều người trong xóm đều gọi Thưởng bằng…”thằng” nên Cương cũng không ngoại lệ. Trong mắt người dân trong xóm, Thưởng là một thanh thiếu niên không nghề nghiệp, ngày nào cũng lê la khắp xóm với quần xà lỏn, hai ống chân ốm tong teo đầy vết dơ lâu ngày không tắm. Tệ hơn là ngày nào bà sáu Từ cũng lôi Thưởng ra chửi vang cả xóm về cái tật ở dơ và làm biếng. Hể nghe tiếng chửi là mọi người lại lắc đầu:” Máy hát nhà bà Từ chạy kìa…”

Nên mọi người bật ngửa khi một hôm, Đoàn cải lương Sống Giang về dựng rạp, hát trong đình vở “Thuyền ra cửa biển”; trong phần giới thiệu có quảng cáo giọng ca mới nổi Giang Điền Tử Lang, một cái nghệ danh nghe rất…Nhật Bản. Có điều bước lên sân khấu thì hóa ra lại là… “thằng Thưởng” xóm đình. Nhưng chuyện cả xóm càng không thể tin được là thằng Thưởng hát cải lương ngọt lịm. Rồi sau bữa đó, Thưởng bỏ nhà đi theo đoàn hát luôn.

Không ngờ hôm nay ông lại gặp người quen cũ ở đây.

“Thì tao cũng còn đi hát lai rai…”

Thưởng nói, trông anh không khác hồi xưa mấy, dù đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, nhưng không hiểu sao ông không thấy ngạc nhiên.

Rồi trong lúc hai anh em đang ngồi trò chuyện rôm rả ôn lại những kỷ niệm xưa thì trên sân đình lần lượt vợ chồng ông Tư Nhị, dì ba bán bánh bèo kế bên đình, hai chị em người Hoa đổi nước… bước ra hỏi thăm thằng Cương-là ông-có khỏe hay không, đang làm gì ở Sài Gòn, sao lâu quá không về quê chơi?

Họ bày bàn ra sân đình, rủ ông ăn bún nước lèo, món đặc sản của người Khmer mà chỉ quê nhà ông mới có. Nào bún, nào rau sống tươi roi rói, nước lèo chan nóng hổi ngập vụn cá lóc ngon mắt, thơm lừng mùi mắm bò hóc. Dĩ nhiên là không thể thiếu đĩa bánh giá chiên tôm giòn rụm ăn kèm.

Ông vui miệng, ăn thiệt tình cả tô bún lớn, điều mà ít khi ở Sài Gòn hồi còn đi làm ông ăn nổi. Rồi ông còn uống vài ly xây-chừng rượu Xuân Thạnh đặc sản quê nhà.

Sau đó, ông cảm thấy choáng váng, đầu óc nặng trĩu…

Phòng hồi sức cấp cứu của bệnh viện tỉnh yên tĩnh lạ thường. Ông nằm thiêm thiếp trên giường bệnh, dây nhợ truyền nước biển nhùng nhằng khắp người. Cô con gái ngoài ba mươi tuổi e dè hỏi bác sĩ.

“Dạ, ba con được đưa vô hồi nào? Giờ sao rồi, thưa bác sĩ?”

“Ổng được thấy nằm ngất trong một ngôi đình cũ. Giờ chưa tỉnh nên khó nhận định lắm. Hai cha con ông chạy xe ba gác chở lúa mướn phát hiện đưa vô hồi khuya. Họ còn ngồi uống cà phê ngoài căn tin bệnh viện, cô muốn biết kỹ thì ra đó hỏi thêm. Đó…cái ông đội cái kết đen, mặc áo lính xanh đang hút thuốc đó…”

Cô con gái bước ra ngoài.

“Dạ con cảm ơn chú đã giúp đưa ba con tới bệnh viện!”

“Gặp ai thì thấy hoạn nạn người ta cũng làm mà…”

“Dạ hông biết sao ba con lại đi lạc rồi nằm ở đình nữa..”

Ông già đội kết đen chưa kịp trả lời thì thanh niên ngồi bên cạnh, trạc tuổi cô con gái bệnh nhân xua tay tỏ vẻ sợ hãi.

“Ổng… ổng bị… ma giấu đó. Lúc tui tới, ổng ngồi dựa vô cột đình, mắt nhắm nghiền mà miệng ổng đầy lá cây, chuối xanh…”

Cô con gái lắc đầu.

“Anh cũng tin có ma quỷ hả?Thời đại bây giờ, ai còn tin bị ma giấu nữa?…”

“Thì hồi trước người ta nói người bị ma giấu nó nhét lá cây, đất cát vô miệng để hổng la lên được cho mọi người biết chỗ giấu mà cứu ra…”

Người cha-ông già mặc áo xanh-nạt ngang.

“Thôi mày bớt tào lao lại chút. Để bác sĩ trị bệnh, giờ về giao lúa nè…”

Rồi như chợt nhớ ra điều gì, ông già nói thêm.

“Ờ mà lạ lắm. Hồi lấy lá cây trong miệng ổng ra, ổng nhắc ổng mới gặp, nào là anh Thưởng, vợ chồng ông Tư Nhị, bà sáu Từ,dì ba bán bánh bèo, chị Tần người Hoa đổi nước…Mấy người ông già bà cả đó trong xóm tui mà, tui biết hết. Họ đều chết lâu lắc rồi. Mà nếu còn sống thì đã tám chục tới trăm mấy tuổi rồi. Ông tên Thưởng đi làm kép hát, nhậu quá, mới hăm tám đã chết. Mấy người kia thì bệnh tật, xe đụng chết cỡ năm tám mươi mấy hồi Nhà nước còn chưa đổi tiền lần hai…

Sao mà ổng gặp được?”

Cả hai cha con quày quả đứng dậy rời đi. Cô con gái thoáng rùng mình, trở vô phòng hồi sức cấp cứu.

Cha cô nằm im, hơi thở mong manh. Không biết do cơn đột quỵ bất ngờ, xới tung mớ ký ức tuổi thơ tưởng chìm trong sâu thẳm tâm hồn ông, hay tô bún nước lèo thời gian đã khiến ông trúng thực; hoặc có con ma nào đó đã giấu ông trong sân đình nhét lá cây vào miệng làm ông nghẹn thở…

Nhưng có vẻ như ông không bao giờ tỉnh dậy nữa…

(VanchuongViet)

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Mê làm ca sĩ
Hỡi cố nhân ơi chuyện thần tiên xa vời Tình đã như vôi mong gì còn chung đôi Cứ cúi mặt đi để nghe đời lầm lỡ Đừng níu thời…
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Cún khóc
Bạn tôi kể: Bỗng… một hôm, nhà anh xuất hiện rất nhiều chuột. Chuột đủ loại: Chuột Cống – Chuột Đồng – Chuột Chù – Chuột Nhắt… Chúng quá thể…
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: