Đến hè năm sau nhà Duyên từ chối không muốn Vân ở trọ nữa, họ sợ bị trộm cắp vì không khoá cửa chắc chắn khi có Vân ở đó. Nhất là Duyên đi rồi, nên Vân đành đi tìm nơi khác.
Cũng may là Vân có đứa bạn cũ, nó đưa Vân đến giới thiệu với chú thiếm của nó là chủ tiệm may Lê Đức ở chợ, xin ngủ tạm. Nhờ nó mà chú thiếm Năm rất vui vẻ mời Vân ở lại, dù tiệm may của họ không rộng rãi nhưng khá sang trọng.
Đó là tiệm may cắt quần áo đẹp nổi tiếng ở đây. Chú cắt may rất khéo và thiếm lo phần đơm nút làm khuy. Thiếm Năm tuổi trung tuần còn khá đẹp, gương mặt lúc nào cũng tươi tắn và có tướng sang. Cả chú thiếm đều khéo léo vui vẻ chào hỏi mọi người, nên thời chính quyền nào tiệm cũng đông khách, nhất là thuận lợi địa thế ở chợ và gần căn cứ quân đội của huyện.
Chú thiếm có ba cô con gái rất xinh là chị hai Chi có chồng là sĩ quan cũ, đang đi tù “học tập cải tạo,” chị và đứa con trai nhỏ về ăn nhờ ba má. Còn lại là hai cô Hân và Hương đang tuổi mười lăm, mười sáu còn đi học, nhưng chú đã muốn kén rễ trước rồi. Đó là các cán bộ đang thời hưng thịnh này, họ làm việc ở huyện thường đến tiệm may và đã để mắt đến hai cô tiểu thư. Tất cả đều ở chung trong căn tiệm tuy nhỏ nhưng sáng sủa và sạch sẽ, lúc nào cũng tràn đầy tiếng cười nói vui vẻ.
Thật cảm động với tình thân thương của gia đình ấy dành cho Vân, vì nhà tuy chật chội nhưng thiếm bày biện rất khéo léo, gọn gàng. Tối hôm ấy Vân ngủ ở đi-văng chung với thiếm và Hương, chỉ một tuần đầu thôi. Thấy bất tiện Vân định đi tìm chỗ khác, thì chú thiếm giữ lại, bảo sẽ đưa nàng đến trọ nhà bà ngoại là má của thiếm, đang ở một mình cách đó mươi phút đi bộ, phía bến đò.
Mùa hè này trên thành phố nhiều nhà bắt đầu kinh tế cạn kiệt, đã phải ăn cơm độn khoai nhiều lắm, nhà Vân cũng không tránh khỏi. Đã khó khăn như vậy mà một năm nay, me nàng còn thương hại cho một chị lạ hoắc đang có bầu, cho vào nhà ở chung và lo cơm nước giúp đỡ, vì chị bị vợ lớn bắt ghen không ở nhà chị được. Thương người thì mình phải hy sinh. Vân không đóng tiền và gạo cho dì Hai mỗi tuần hai buổi cơm nữa, nàng chỉ ăn mỗi ngày một buổi thôi, vì số gạo và tiền còn lại nàng muốn giúp cho me bớt lo buồn chuyện chạy ăn mỗi ngày quá cực nhọc.
Tuần đầu tiên Vân chỉ ăn buổi trưa còn chiều nàng mua khoai, bắp ăn đỡ đói rồi đi ngủ. Có một buổi chiều học xong, các bạn nàng vui vẻ đi ăn cơm ở nhà dì Hai, còn Vân lủi thủi đi quanh phố chợ tìm mua món ăn tạm, nhưng chợ chiều tan hết rồi không còn ai bán hàng, nàng đành nhịn đói. Khi về nhà chú Sáu lúc họ đang dùng cơm, Vân ngồi trước cửa tiệm một mình, nhìn ra đường vắng mà lòng thật buồn vì bụng đói cồn cào. Bất ngờ thằng bé con chị Chi từ trong nhà đi ra, tay cầm chén cơm gạo trắng ngần thật ngon lành, phía trên là một cục thịt kho vàng ươm, nhìn đến thèm. Thằng bé ngồi ăn cạnh nàng. Đó là lần đầu tiên nàng mới biết cái đói và cái thèm ăn nó đã hành hạ mình đến thế nào, thì nói gì đến những sỹ quan cộng hoà bị CS bỏ tù.
Nàng chỉ ngồi im, không nhìn chén cơm của thằng bé nữa.
Sau đó mẹ bé cũng ra ngồi cạnh Vân, chị nhớ thương chồng đang bị lao tù đến giờ chưa thấy mặt, chị buồn rơm rớm nước mắt. Nhưng Vân hiểu rằng cái khổ xa chồng vì thương nhớ và lo âu, nhưng chị lại còn có cái khổ khác, là phải về nhà ba mẹ ăn nhờ trong thời đói khó này, làm chị thêm buồn thắt ruột. Thế nên Vân thấy mình sung sướng hơn chị nhiều, vì nàng tự lo được cho thân mình và không bị chồng con vướng bận. Nàng lại vui ngay và an ủi chị nuôi hy vọng, chờ ngày anh ấy trở về với vợ con. Mãi đến mấy mươi năm sau, hình ảnh chén cơm thịt kho ấy đôi khi trở về, làm nàng buồn buồn.
Đến tuần sau nàng thay đổi, là chỉ ăn cơm chiều vì buổi trưa còn nhóm chợ dễ mua món ăn hơn. Ôi, những ngày này dài lê thê, có ai bắt Vân nhịn ăn như vậy đâu? Nàng đã tình nguyện và âm thầm chịu đựng cái đói khát như những người đã bị đuổi đi vùng kinh tế mới, như bao nhiêu người trên đất nước lầm than khốn khó này. Nàng vẫn thản nhiên vì chung quanh nàng nào có ai là người đồng cảm? Mọi người ồn ào, cười nói nhưng với nàng chỉ là vắng không.
Nhờ lòng tốt của chú thiếm Năm nên Vân được ở trọ nhà bà ngoại cho đến hết khoá học. Nhà bà mới cất vài năm thôi, thật rộng và toàn bằng gỗ tốt rất đẹp và chắc chắn. Căn nhà gỗ màu nâu có cổng rào, sân vườn trước trồng hoa và sau nhà có vườn cây trái. Bên hông nhà là lạch nước chảy đến sau vườn, có chiếc cầu ván bắt ra đó cho bà rửa ráy mọi thứ. Đặc biệt là có cả nhà vệ sinh sạch sẽ mà từ khi về đây Vân chưa bao giờ thấy cả.
Bước vào nhà bà, Vân ngạc nhiên vì không nghĩ một cụ già trên bẩy mươi tuổi mà còn khoẻ mạnh, tự lo một mình như vậy được. Bà ốm yếu lưng còng,miệng chỉ còn vài cái răng móm mém ăn trầu, nhưng đôi mắt còn rất tinh anh. Bà không vui vẻ như thiếm Năm, con gái bà. Có lẽ bà bị khó tánh của người già, nên Vân chưa thấy bà cười bao giờ. Nhưng bà ân cần tiếp đón nàng như người nhà, làm nàng thầm sung sướng cảm ơn.
Trong nhà các phòng ngủ tuy hơi tối, nhưng phòng khách và nhà sau đều sáng sủa, thích vô cùng. Phòng khách có bộ salon gỗ chạm trổ thật đẹp, tủ thờ ông bà cũng chạm trổ tinh vi. Vân nghĩ thầm có lẽ chú thiếm cất nhà này để sau này khi bà mất, sẽ cho hai con gái của chú thiếm làm của hồi môn với các “rể quý”kia chăng? Và đúng như thế.
Vân được ngủ một mình trong phòng, có bộ ván gỗ mun dầy đen mát lạnh như ở nhà dì Bẩy. Mỗi buổi chiều sau khi tan học và ăn cơm xong, nàng về nhà bà, quanh quẩn bên bà nghe kể chuyện đời xưa lúc bà còn trẻ. Bà vừa làm cơm vừa kể chuyện rất có duyên, trí nhớ bà còn rất minh mẫn, khiến Vân sung sướng tưởng như mình có bà ngoại hay bà nội, mà suốt thời thơ ấu nàng thầm ao ước. Có hôm nghe bà vừa ăn cơm vừa kể chuyện đời con gái khổ đau của bà, trong thời bị thực dân Pháp chiếm đóng Việt Nam, khiến nàng thương bà, muốn ôm bà khóc theo chuyện.
Các xóm này nhiều nhà còn khá giả, chưa thấy nghèo túng như dân ở các xã ấp xa của nơi Vân dạy. Có lẽ nhờ vào con sông Soài Rạp rất lớn và gần chợ, nên đời sống còn phồn thịnh.
Đêm đầu ngủ nhà lạ Vân cũng lại hơi sợ ma vì phòng rộng và âm u quá, nhưng dần rồi quen. Nàng thích ở đây, thật mát mẻ và êm đềm.
Cuối khoá học, bà ngoại hứa cho Vân sang năm đến trọ hè tiếp tục nữa, khiến nàng mừng cảm ơn bà vô cùng.
Khi Vân đến từ giã chú thiếm Năm, họ ân cần hỏi thăm về chuyện tình cảm của nàng và khuyên nên chọn các cán bộ CS mới này để có tương lai hơn là các sỹ quan cũ kia, đang bị tù cải tạo đã hết thời lỡ vận, như chú thiếm đã làm cho hai cô con gái của mình. Vân hiểu ra tại sao chị Chi ở nhà ba má ruột của mình, mà lại buồn rầu như vậy. Thời trước chị đã lấy chồng sỹ quan của đồn lính Cộng Hoà bên huyện này, có lẽ cũng do chú thiếm mối lái. Giờ hết thời chị bị cha mẹ xem nhẹ chăng?
Chú bảo sẽ giới thiệu ông cán bộ bên huyện cho nàng. Vân cám ơn lòng tốt của chú và từ chối, bảo rằng người yêu sắp về rồi, để chú hết ca bài “con cá” ấy nữa. Nhưng Vân hiểu tâm lý con người như chú thiếm nên không giận hay ghét khinh. Mỗi người chọn một lối sống theo bản năng, thì tại sao mình bắt họ giống mình?
Cũng như vợ chồng chú Dật, là chú chồng của bà chị Vân. Ông anh rể đi học tập cải tạo, ở nhà chị vẫn làm công chức nuôi con, vừa chạy tìm bà con “bên kia” để chạy chọt kéo chồng về sớm. Chị đã tìm ra chú Dật này. Mỗi lần đến nhà họ chơi,chị hay bắt Vân theo. Ông này người Huế tập kết ra Bắc, năm 75 vào Nam ở Đa Kao, đem theo bà vợ Bắc cũng cán bộ. Họ rất lịch sự, dễ thương nhưng gặp Vân vài lần, mà ông cũng đã khuyên nàng giống như chú Năm này, và lăm le giới thiệu người nữa chứ.
Họ có lợi gì mà khuyên nhũ nàng như vậy? hay thật sự họ thương mến nàng mà dạy khôn?
Trong khi gia đình và bà con Vân ở Hội An vào thăm, cũng đều khuyên nàng ngược lại là đừng lấy chồng hãy chờ người yêu về, vì ở trong tù đã khổ mà nghe tin người yêu bỏ rơi đi lấy chồng, thì còn gì đau khổ hơn nữa,có người tự tử luôn.
Vân không cần ai khuyên gì cả, vì nàng biết rõ con đường mình đi rồi, nên dù ai nói đúng hay sai nàng chỉ cám ơn lòng tốt của họ thôi.
Ôi, cuộc đời đổi trắng thay đen chỉ vì món lợi danh. Nàng chua chát buồn, thấy mình thật cô đơn, đứng bên lề cuộc đời này và từ bao giờ mình đã miễn nhiễm về cái quyến rũ của hào quang ấy.
Đầu niên học mới Vân vẫn dạy và ở trọ nhà dì Bẩy như cũ. Nhưng được vài tháng thì dì báo tin sẽ làm đám cưới cho thằng Lép. Vân ngạc nhiên vì nó chưa đến hai mươi tuổi. Dì bảo nó cứ hẹn hò với con gái người ta hoài nên dì phải cưới cho yên, sợ có ngày nó làm con kia có bầu thì dì còn khổ hơn. Vân hỏi:
-Làm sao dì có đủ tiền mà cưới dâu đây?
Dì chép miệng buồn rầu một lúc rồi nói :
-Tui bán lúa bớt, cùng lắm thì bán lúa giống luôn.
Vân kêu lên :
-Đừng bán, lấy gì sạ (*) cho sang năm??
Vân biết đám cưới ở quê dù nghèo cũng phải đãi ăn cả xóm, giàu thì đãi nhiều hơn, rất tốn kém. Dì nhìn ra ngoài sân mà đôi mắt muốn khóc. Dì nói ai cũng nghèo làm sao tui mượn tiền họ được. Làm sao Vân có tiền để giúp dì Bẩy đây? Chính nàng cũng muốn khóc theo thôi.
Từ đó nàng im lặng tìm chỗ trọ khác, để chỗ ngủ cho vợ chồng thằng Lép, dù dì Bẩy nói cứ ở lại, dì chỉ làm một cái chái che kín đáo ở nhà sau cho hai đứa nó là đủ.
Đến ngày cưới dâu của dì Bẩy, Vân đã có chỗ trọ mới rồi. Dạy xong chiều đó Vân xuống nhà dì tặng bao thư tiền cho thằng Lép và dự tiệc cưới cho dì vui. Vì nhà có tiệc, dì bảo nàng ở lại ngủ trong cái hóc bé tí ở nhà sau, được che bằng mấy cái phên tre. Đêm ấy Vân nằm nghe giọng nói chuyện của dì Bẩy với mọi người, giọng dì thật buồn như cuộc đời, làm nàng cảm thương nghĩ: “Rồi sau ngày cưới này, dì sẽ chạy đâu ra tiền mà trả nợ?”
Suốt đêm ấy nàng cũng không ngủ được, vì bà con lối xóm bu lại làm bếp ồn ào… Cũng nói chuyện suốt đêm đến sáng như lần đám cưới ở nhà chị Bẩy. Nhưng đám cưới thằng Lép nhà nghèo không che rạp, chỉ đốt một cây đèn “mangcho” cho sáng nhà bếp để làm cỗ thôi. Cũng không có hát hò cả đêm, không có tiếng cười vui ròn rã, thoải mái và ăn đêm thả giàn như đám cưới của chị Bẩy được. Thế nhưng dì cũng đãi ăn hai ngày, đông đúc hàng xóm,bà con đến chung vui.
Tại sao con người vì cái sĩ diện mà phải chịu khổ cực như vậy?
Nhà trọ mới
Vân may mắn được dì Sáu ở sau chùa gần trường, mời về nhà dì trọ. Nàng không phải lo gì cả chỉ đem gạo theo thôi, như lúc ở nhà dì Bẩy. Dì Sáu có tâm đạo cao nên không lập gia đình. Dì có cái thanh thoát,dù buôn bán cực nhọc nhưng vẫn như an nhàn. Có lẽ một phần cũng nhờ có cô cháu gái Sáu giỏi giắn theo giúp dì.
Vân quen em Sáu lúc nàng và các bạn đi chùa cúng sáng vài lần. Sáu cũng tu theo gia đình, gương mặt em tròn tươi sáng, tánh tình thật thà chất phác, lúc nào cũng tươi cười thật vô tư, nên Sáu và Vân thích nhau lắm. Nghe Vân tìm chỗ trọ, em bèn về nói với dì Sáu của nó, thế là dì đồng ý mời Vân đến ở.
Dì Sáu ở một mình với ba đứa cháu, là Sáu và hai đứa bé con dì Tám ở Sài Gòn gởi về đây, đi học bên trường. Nhà dì rộng rãi khang trang mái ngói, vách tường xây cất vững chắc. Nhà trước là phòng thờ tự, nhưng chả thấy dì lễ bái cúng lạy như các tín đồ khác. Đó là cái hay của dì Sáu biết đạo không phải là hình thức, giống như ý Vân đã nghĩ. Vì thế dù không bao giờ dì nói về đạo với nàng, nhưng hình như cái tâm ấy hai người đã hiểu nhau, như đồng thanh tương ứng rồi vậy.
Nhà dì có thêm một căn nhà gỗ nhỏ mới cất, bên cạnh căn nhà chính, thật lý tưởng, vì nằm dưới tàng cây me già trong sân rộng. Những buổi trưa nóng bức, đi dạy về Vân nằm gát chân lên song cửa sổ, gió thổi lồng lộng như đi nghỉ hè bãi biển, thích vô cùng. Nàng và em Sáu nói chuyện một lúc rồi nàng ngủ quên không hay.
Nhà làm đậu hũ buôn bán nên ai cũng bận rộn suốt ngày. Buổi tối Sáu ngâm đậu nành. Hôm sau ăn trưa xong hai chị em xây đậu trước. Vân giữ việc dễ nhất là cho đậu từ từ vào cối để Sáu xây nhuyễn thành bột. Sáu là con gái đồng lại ở tuổi bẻ gãy sừng trâu, em khoẻ vô cùng. Cái cối đá xanh nặng nghìn cân mà nó xây một hơi cả chục kí đậu không mệt, Vân có thử xây mà đành chào thua. Khi xây xong thì cho vào một nồi to, nấu ngoài sân. Khi nấu xong chờ nguội bớt, thì hoà thạch cao vào để đổ vào khuôn gỗ có lót vải, và dằn cho sát lại từng khuôn, nhìn thật ngon.
Sáu thường mời Vân uống sữa đậu nành khi nấu xong. Ly sữa thơm lừng vì em thả vào vài cọng lá dứa và một muỗng đường cát cho ngon. Có hôm Vân hỏi đùa: “Sao em ‘cưng’ chị như vậy?” Sáu cười, nụ cười mộc mạc, cũng như khi thấy lại Vân sau kỳ nghỉ hè dài, em chạy lại ôm nàng mừng rỡ như gặp lại người thân trong nhà. Duyên lành này là từ bao đời trước nên đời này Vân và gia đình dì Sáu gặp lại nhau. Ba má của Sáu là dì dượng Bẩy nhà cạnh đó cũng thân thương Vân lắm. Nhờ vậy thời gian ở đây nàng rất sung sướng, tâm hồn thật thanh tịnh, xa hẳn bụi bậm Sài Gòn buồn nhiều hơn vui.
Mỗi khi dì Sáu ở nhà không phải đi mua bán, thì dì làm bếp thật ngon cho cả nhà ăn. Hôm nào dì đi bỏ hàng về muộn thì Sáu và Vân làm bếp trước chờ dì về. Cả nhà ăn chay nhưng đầy đủ chất bổ vì luôn có đậu hủ tươi mới của dì trên mâm cơm.
Dì và em Sáu thật tốt, tâm hồn họ trong sáng và thương Vân như người nhà, làm nàng cảm động vô cùng. Cả ngày trong nhà luôn có tiếng nói cười vui vẻ, làm sao Vân quên được những buổi cơm chiều thật ấm cúng.
Những buổi chiều lúc trời chạng vạng tối, mâm cơm vừa nấu xong dọn ra trên cái chỏng gỗ thấp để ngoài sân sau và cả nhà quây quần ngồi ăn vui vẻ. Vừa ăn dì vừa ân cần hỏi thăm từng người nhất là hai đứa bé, chúng tranh nhau nói và cười đùa thật vui nhộn, êm đềm. Có những hôm Vân nhìn thằng Năm đi khập khễnh với hai nạng gỗ mà thương, vì hai chân bị teo tóp sau cơn sốt tê liệt lúc còn bé. Nhưng nó rất vui vẻ không mặc cảm, luôn đùa nghịch với con Bẩy em nó. Hai đứa trẻ thật ngoan.
Suốt thời gian dạy ở đấy Vân chỉ ăn chay. Lúc trọ ở trường vì thiếu tiền, thiếu ăn nên phải ăn chay. Còn ở trọ nhà dì Sáu vì thật là tâm dì tu nên ăn chay cho thanh tịnh. Ôi chao! mỗi ngày là một buổi picnic được ăn ngoài trời thật sung sướng. Cái thoáng mát của khí trời trong lành ở đồng quê và tình thân thương của cả nhà, làm ai cũng ăn ngon dù chỉ là tương chao, đậu hủ và rau cải thôi, vậy mà Vân không hề thèm các món thịt cá nào cả như lúc ở trọ nơi trường.
Ở đây Vân không lo vấn đề thiếu nước dùng, vì nhà dì có nhiều lu chứa nước mưa và có cả cái giếng sâu nữa. Nhà vệ sinh và nhà tắm cũng có đầy đủ.
Thỉnh thoảng vào dịp tết hay đám giỗ, dì Sáu đều làm bánh ít, bánh tét thật ngon và nhiều để tặng bà con, và dì đều để dành quà cho Vân. Bấy giờ không có tủ lạnh, dì giữ các thứ bánh ở giữa lưng chừng cái giếng cho mát, để chờ Vân đến. Ôi, những món quà quê tình nghĩa ấy làm ấm lòng nàng mãi đến giờ, không quên.
Đi bán đậu hũ
Có một lần Vân cũng đi theo em Sáu ra chợ Trạm bán đậu hũ. Buổi sáng hôm ấy nàng cũng thức dậy thật sớm,Sáu đi trước gánh đậu nặng trĩu đôi vai làm Vân thương thương,vì nàng cũng ghé vai gánh thử mà không nổi lại bị đau ê cả vai.Thế mới biết một miếng ăn là bao nhiêu công khó nhọc của người làm ra,vì vậy ở nhà ba Vân hay dạy các con đừng phung phí vật phẩm là như vậy.
Ra đến chợ trời còn mờ mờ chưa sáng tỏ, Sáu tìm chỗ ngồi và bày cho Vân xếp từng miếng lá chuối để gói đậu hũ cho khách mua. Sáu hỏi:
-Chị ngồi bán với em không sợ mắc cở à? Ba má học trò đi chợ nhiều lắm đó.
Vân cười lắc đầu:
-Mình có làm gì xấu đâu mà mắc cở hở em. Chị thích bán hàng để tiếp xúc nhiều người cũng vui vậy.
Hôm ấy Vân ngồi nhìn các bà bán hàng chung quanh thấy thật thú vị, họ mộc mạc cười nói giòn tan và dễ thương hơn các bà, các cô ở chợ trên Sài Gòn nhiều. Ở đó nàng đã thấy khách không mua vì họ nói thách giá cao, là bị họ chửi bới khách ngay. Nhất là người hiền lành là bị các bà bán hàng ăn hiếp tơi bời.
Vân kể cho em Sáu nghe, nó cười hỏi:
Vậy chị ở với em luôn đi,rồi đi chợ quê thích hơn phải không?
Hai chị em bán chưa hết gánh đậu, trời chưa đến mười giờ đã nắng nóng lắm rồi, cả chợ đã vắng bớt người, khách mua cũng lưa thưa. Sáu giục Vân về thôi vì buổi chiều nàng còn đến trường dạy học nữa.
Hôm ấy là một kỷ niệm đẹp cho nàng và cảm thấy quý và thương nỗi cơ cực của người dân lao động vô cùng.
Cuối hè năm ấy gia đình nàng và gia đình người yêu đã làm đám cưới cho hai đứa. Chả biết tại sao Vân không giữ vững lập trường của mình suốt bao năm qua? Vì ngay chính các em nàng còn chọc ghẹo:
-Chị dám ở già, giống như bà Sáu già ở trước nhà mình thật không?
Và những lời nàng đã nói với anh Soài ngày nào: nếu không gặp được người cùng lý tưởng như mình thì sẻ ở độc thân suốt đời, sướng hơn.
Thế mới biết cái duyên nợ, khó ai hòng thoát khỏi móng vuốt của nó.
Rồi có một cuối tuần Duy bỗng xuất hiện.
Vì chả biết Duy mất tích lúc nào Vân không để ý,vì lần họp với ban đời sống ở trường, Vân dám nói thẳng chuyện làm ăn bất chánh của họ để xây dựng lại tốt đẹp hơn. Nhưng Vân quá thành thật đến vụng về, nên bị bọn họ thủ đoạn, bào chữa mọi cách vì ngầm có ban giám hiệu đứng sau lưng. Nên họ đã chuyển bại thành thắng, làm Hồng và chị Thái không dám nói theo Vân nữa. Họ sợ quá im luôn. Và Duy hôm ấy không có mặt, như bao lần họp đều như thế.
Nhưng một chiều vàng thật đẹp, bỗng Vân ngạc nhiên khi thấy Duy đến nhà thăm. Hôm ấy anh chàng mặc chiếc áo sơ mi caro khá đẹp. Chàng cười vui khoe chiếc răng khểnh duyên.
Có chuyện gì mà Duy không tiện nói? hay vì Vân lại cố tình không muốn hiểu?
Cuối hè năm ấy người yêu Vân trở về, chàng vẫn khoẻ mạnh như xưa và phải làm quen cái xã hội đổi thay điêu tàn này, để vươn lên mà sống.
Bây giờ viết lại, nàng rất cảm động vì các bạn trai của nàng ngày ấy thật trong sáng, đáng quý làm sao. Họ thương mến nàng bằng tâm hồn còn tinh khôi vừa rời ghế nhà trường, và bắt đầu vào đời “sương gió” bụi bậm này. Ôi, những tâm hồn ấy nay về đâu?
***
Vì năm cuối cùng khi Vân còn ở quê nhà, chị Thảnh đã đổi về tỉnh Long An để dạy gần nhà, có lẽ Lý không dám trọ ở trường một mình, chắc cô nàng về nhà Linh?
Cho mãi đến khi Vân sanh con đầu lòng, nàng bận bịu không thể tiếp tục đi dạy xa được, thì chàng Thứ đã tình nguyện dạy thế cho nàng. Sau này Vân hiểu ra, có lẽ ban đời sống và ban giám hiệu, ngầm giúp nàng như thế. Nhờ vậy Vân ở nhà trông con và mỗi tháng nàng xuống trường một lần, để lãnh một nửa tiền lương và nhu yếu phẩm.
Trong suốt một năm rưỡi ấy, các bạn trong trường vẫn thương mến và giúp đỡ nàng như vậy. Tình cảm chân thành ấy khiến Vân không giấu chuyện bí mật của mình, nên cho các bạn biết nàng và chồng con đã “ra khơi” nhưng bị thất bại lần đầu. Họ đều vui vẻ ủng hộ và mong nàng thành công.
Đến lần thứ hai, vợ chồng nàng‘‘ra khơi’’ được an toàn và thành công.
Hai năm sau Vân gởi quà về nhờ ba me nàng mang đến trường tặng Thứ và nhà dì Sáu, để báo tin. Họ mừng vô cùng. Còn nhà dì Bẩy má thằng Lép, thì me không tìm ra được. Đành vậy, nhưng lòng Vân áy náy không nguôi. Nhất là thăm lại gia đình chú thiếm Năm tiệm may và bà ngoại. Bà già như thế chắc gì còn sống?
Trong suốt hơn ba năm dài dạy học ở Cần Giuộc, chuyện đi xe đò thật nhiêu khê đã ám ảnh Vân suốt mấy mươi năm dài. Trong những giấc ngủ, nàng hay mơ thấy mình bị trễ xe, hay phải đứng chờ đợi suốt bao nhiêu giờ mới đến trường hay trở về nhà được. Có nhiều hôm về đến Sài Gòn trời đã tối, đường đã lên đèn buồn vàng vọt, mà nàng còn phải chờ xe bus để về nhà. Những nỗi chán chường ấy, làm sao quên.
Hai mươi năm sau Vân có tin tức của Thứ. Anh vẫn giữ chức hiệu trưởng và đã lập gia đình với cô giáo đồng nghiệp. Ngôi trường nhỏ bé nghèo nàn ngày xưa nay đã thay đổi, tốt đẹp và rộng rãi hơn vì có thêm cấp II.
Nàng ao ước có một lần về thăm các bạn cũ và các ân nhân, nhưng vẫn chưa thực hiện được. Vì càng mất tin nhau suốt bao năm dài thì biết. Ai còn ai mất đây?
(*) gieo mạ.
(Hết)




























