‘Gió đưa bụi chuối sau hè’

Cơn mưa ở miền Nhiệt Đới. (Hình minh họa: ulf-sandstrom-uev/Unsplash)

Ông bà ngày xưa thường mượn hình ảnh hoạt động thường ngày, hình ảnh cảnh vật gần gũi trong đời sống nông thôn, và hiện tượng thường thấy trong thiên nhiên đất Việt để làm phép ẩn dụ trong ca dao, nói bóng nói gió với nhiều hàm ý, nửa như răn dạy, nửa như đúc kết về cách sống.

Ca dao từ đó đã lưu truyền nhiều đời trong dân gian Việt Nam. Các bà mẹ từ thế hệ này sang thế hệ khác thường dùng câu ca dao để ru con ngủ. Hai câu ca dao phổ biến mà người miền Nam thường dùng ru con là: “Gió mùa thu mẹ ru con ngủ. Năm canh chày thức đủ vừa năm.” Thậm chí, người miền Nam còn sử dụng ca dao để trách cứ kẻ phản bội và để đánh ghen.

Dùng ca dao để trách cứ và ghen tuông

Vài chục năm trước, một hôm trưa hè gió hiu hiu, khi ba của gã, người trong xóm thường gọi là ông Sáu, nhà quê vắng nhà,  gã ra đằng sau hè đứng hóng mát dưới tán cây mít, đối diện nhà bà Chín. Trong sân nhà bà Chín, gã nhìn thấy mấy đứa con của ông bà Bảy – trai có gái có trên dưới mười tuổi, đang giành nhau cái võng.

Khi thấy gã ngó sang, miệng chúng bô bô trêu chọc gã nhà quê: “Gió đưa bụi chuối sau hè. Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ,” vì bọn chúng biết từ ngày má gã mất, ông Sáu hay bỏ nhà ghé thăm mấy bà “vợ hờ.”  Trong khi gã chưa kịp phản ứng thì đám con nít liền “dội vào mặt” gã thêm hai câu ca dao: “Mấy đời bánh đúc có xương. Mấy đời dì ghẻ mà thương con chồng.” làm gã lùng bùng lỗ tai.

Con chim rồng rộc trên cây chuối. (Hình minh họa: desiree-m/Unsplash)

Lúc đó, gã nhà quê tức muốn “ói máu” mà không biết trả lời lại làm sao! Song bây giờ nghĩ lại gã chợt nhận ra một điểm rất hay là ca dao quen thuộc và dễ nhớ đến nỗi đám con nít cũng có thể thuộc và “ngân nga.”

Chuyện ông Sáu thường “theo vợ hờ” trong xóm ai cũng biết. Vì trước đó, có lần ba bà “vợ hờ” của ông tình cờ “không hẹn mà gặp” ngay tại nhà ông, lúc đó gã có ở nhà. Tại đây, một trận đánh ghen bằng ca dao “bùng nổ,” làm rùm beng khắp xóm.

Bà thứ nhất mà gã gọi là “cô Ba” trách cứ sự phản bội của ông Sáu bằng hai câu ca dao: “Em tưởng giếng sâu em nối sợi gàu dài. Ai ngờ giếng cạn, em tiếc hoài sợi dây.” Ai từng sống trong bối cảnh nhà quê sẽ dễ dàng hiểu ý nghĩa sâu xa của hai câu ca dao mà bà Ba dùng. Đó là tình cảnh một người hết lòng hết dạ yêu một người nhưng khi bị phản bội thì tiếc ngẩn tiếc ngơ cái tình cảm mặn nồng sâu đậm mà mình đã trao cho người ta.

Bà thứ hai mà gã gọi là “cô Hai” bồi thêm: “Trồng trầu thì phải khai mương. Làm trai hai vợ phải thương cho đồng.” nhằm bộc lộ lòng ghen tuông nghi ngờ ông Sáu thương bà ít hơn thương hai người kia. Nghe vậy, gã tự hỏi không biết trong “cuộc tình tay tư” này, ba của gã thương bà nào hơn?

Buồng chuối xanh còn trên cây. (Hình minh họa: Naoki-suzuki/Unsplash)

Không chờ ba của gã trả lời, bà thứ ba mà gã gọi là “cô Chín” tiếp tục: “Sá chi một nải chuối xanh. Năm bảy người giành cho mủ dính tay.” Bà Chín có vẻ “ra đòn” chính xác và “hiểm” nhất, “bắn” một “mũi tên ghen tuông” trúng cả ba mục tiêu là ông Sáu và hai bà kia. Khi ông ba của gã bị bà Chín ví như “một nải chuối xanh đầy mủ” gây ra phiền toái, mà các bà lại tưởng quý giá, lo tranh giành để chuốc lấy rắc rối, ông bắt đầu gầm rú, nói năng loạn xạ, quơ tay quơ chân. Không tìm được câu ca dao nào để đối đáp lại với cả ba bà, trông ông thảm hại như một người đang “thất trận!”

Kể ra ba bà “vợ hờ” của ông Sáu cũng giỏi, chỉ “đánh nhau” bằng ca dao chớ không thượng cẳng chân, hạ cẳng tay. Sanh sau đẻ muộn, nhưng thuở nhỏ ở quê gã cũng nghe người ta nhắc đi nhắc lại vụ đánh ghen “long trời lở đất” hồi năm 1963 giữa bà “Năm Ra – đô” (vợ trung tá Trần Ngọc Thức) và vũ nữ Cẩm Nhung. Vũ nữ Cẩm Nhung đã bị bà “Năm Ra-đô” và du đãng tạt axit hủy hoại nhan sắc. Gã nhà quê nhớ lại từng nghe người trong xóm bàn tán dù gương mặt vũ nữ Cẩm Nhung bị biến dạng nhưng đôi bàn tay thon dài của bà vẫn còn rất đẹp.

Mỗi lần nghe chuyện về cô vũ nữ này, gã thầm thương cho số phận của bà bằng bốn câu thơ mà gã nghĩ ra theo thể thơ lục bát tương tự như ca dao:

Thương thay cho kiếp má hồng,

Dung nhan tàn tật long đong một đời.

Thuyền tình nông nổi ra khơi,

Vướng vào chi hỡi lệ rơi thành dòng.

Ca dao nhắc nhớ những hình ảnh quen thuộc của quê hương

Nói đến vùng nông thôn Việt Nam thì không thể nào quên cây chuối, bụi chuối – thứ cây ăn quả xuất hiện khắp nơi, hầu như nhà nào cũng trồng. Vì vậy, ông bà ngày xưa đã đưa hình ảnh bụi chuối vào hai câu ca dao: “Gió đưa bụi chuối sau hè. Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ” để nói về nỗi lòng đắng cay của người vợ bị chồng phản bội.

Khi những đứa trẻ hàng xóm trêu ghẹo gã bằng câu ca dao đó, gã nhà quê rất buồn và tủi thân. Đúng là sau hè nhà gã có một bụi chuối. Dù cho ba gã không phản bội má (vì má đã mất sớm còn đâu) nhưng ông Sáu đã bỏ mặc gã (lúc đó còn chưa vào lớp 1) ngày này qua tháng nọ.

Còn khi nhớ đến hai câu ca dao mà bà Ba dùng: “Em tưởng giếng sâu em nối sợi gàu dài. Ai ngờ giếng cạn, em tiếc hoài sợi dây,” gã nhớ cách người nhà quê kéo nước giếng bằng tay với dụng cụ thô sơ. Mãi đến những năm đầu của thập niên 90s, người dân quê gã vẫn còn xài giếng nước đào trong sân đằng trước hay đằng sau ngôi nhà. Người ta xách nước từ giếng lên với sợi dây mũi (cột mũi trâu bò), một đầu dây cột cái gàu (bằng nhôm hay mủ – nhựa). Nhà ai văn minh lắm thì sẽ kéo nước giếng bằng cần vọt hoặc cái tay quay (cách gọi ở quê gã để ám chỉ một ứng dụng của ròng rọc).

Cảnh người dân quê đang cấy lúa. (Hình minh họa: kyle-hinkson/Unsplash)

Cần vọt gồm cây dài đặt ngang trên một cái trục, một đầu cột tảng đá nặng, một đầu buộc một cây nhỏ dài khác thòng xuống giếng mà lấy nước (trang 210,  tự điển Việt Nam Tân Từ Điển Minh Họa,  tác giả Thanh Nghị, xuất bản năm 1966). Còn cái tay quay là dụng cụ có trục quay, trên trục có cuốn dây mũi, dùng để kéo nước từ giếng lên.

Đến hai câu ca dao mà bà Hai dùng: “Trồng trầu thì phải khai mương. Làm trai hai vợ phải thương cho đồng,” gã nhà quê nhớ lại đoạn dây trầu của nhiều nhà trong xóm. Đây là là loại cây dây leo mà nhà nào có bà già ăn trầu cũng đều trồng ít nhất một bụi trong sân nhà. Người ta nói trầu là giống cây nắng quá cũng chết mà mưa quá cũng chết, chính vì vậy mà vào những ngày mưa dầm, người ta phải khai thông mương cho nước đừng đọng lại quá nhiều quanh gốc trầu.

Dẫn dắt từ thực tế “Trồng trầu thì phải khai mương,” ông bà ngày xưa vô đề răn dạy liền: “Làm trai hai vợ phải thương cho đồng,” kể ra thiệt tài tình.  Cứ mỗi lần gã đi coi hát hay coi ké truyền hình nhà ai mà “lỡ” bị bà già nào đó phía sau phun cổ trầu (nước cốt trầu) đỏ chét dính áo là gã nhà quê lại nhớ đến hai câu ca dao này.

Thân tre được ứng dụng nhiều trong đời sống dân Việt. (Hình minh họa: alex-keda/Unsplash)

Hai câu ca dao cuối mà bà Chín dùng mới thật là “đắt.” Hình ảnh “nải chuối xanh” được ví von như người đàn ông lăng nhăng nhiều “vợ hờ.” Mấy bà giành nhau “nải chuối xanh” thì chỉ chuốc lấy hậu quả là “mủ dính tay.”  Bà Chín dùng câu ca dao này mỉa ông Sáu, chê hai bà kia, nhưng đồng thời cũng để thức tỉnh bản thân phải thoát khỏi “nải chuối xanh!”

Cần nói thêm, tuy phiền toái là có đầy mủ, nải chuối xanh là hình ảnh quen thuộc với dân quê hơn cả cây chuối, vì nó gắn bó với họ lúc sống cũng như lúc ra đi. Ở quê, nải chuối xanh thường được dùng để cúng ông Địa hoặc dằn lên bụng người mới chết.

Bà Ba, bà Hai, bà Chín, ông Sáu đã không còn trên cõi đời này nữa. Song đến bây giờ, gã nhà quê vẫn nhớ những câu ca dao nhẹ nhàng mà thâm thúy mà các bà đã dùng để trách cứ ông Sáu và ghen tuông với nhau. Gã luôn nghĩ giá như trong các cuộc đánh ghen ai cũng “nói” ca dao để bày tỏ quan điểm riêng, thì sẽ không xảy ra hậu quả đáng tiếc như vụ vũ nữ Cẩm Nhung.

Điều cuối cùng mà gã nhà quê luôn trăn trở là cuộc sống thôn quê ở miền Nam dần dần bị đô thị hóa, những hình ảnh quen thuộc với người dân trong ca dao cũng dần dà mất đi thì liệu các thế hệ sau có còn hiểu và nhớ nổi những câu ca dao – kho tàng văn học dân gian của người Việt?

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: