Nói chuyện kỹ nữ bên Tàu thì bi thương, kỹ nữ bên Tây thì hiện đại, hợp pháp, thì kỹ nữ bên Ta lại mang một màu sắc riêng, pha trộn giữa thương cảm, hồn hậu, và… cái nghèo vật chất lẫn tinh thần.
Ở xứ mình, từ thời Gia Long đến thời cận đại, kỹ nữ là những người con gái sa cơ thất thế, không còn đường lùi, phải “bán mình cho đời” để sống còn. Chẳng ai thích, mà cũng chẳng ai lên tiếng bảo vệ, ngoại trừ vài nhà văn, thi sĩ…
Trong cải lương miền Nam, Hà Triều, Hoa Phượng, Ngọc Điệp… đều đưa hình ảnh kỹ nữ vào vở tuồng. Nửa đời hương phấn, Con gái Chị Hằng, Tần Nương Thất, Tuyệt Tình Ca… mỗi vở là một phận người, một giọt nước mắt. Em Ba, em Tư, dì Năm, dì Sáu khóc hết nước mắt cùng nhân vật. Nhưng họ khóc vì thương người kỹ nữ, chớ không phải vì tiếc tiền mua vé hay chê tuồng diễn dở ẹc.
Văn học Việt Nam nhìn nghề này với con mắt vừa thương vừa trân trọng. Khác với mấy ông đạo đức học gọi nó là “nghề làm nhục tổ tông,” văn nhân quê mình coi đó là cái nghề “kinh doanh vốn tự có,” phận người bất đắc dĩ. Ngay cả Truyện Kiều của Nguyễn Du, Thúy Kiều không có thật ngoài đời, mà mấy ông ong ỏng cứ chửi bới tối tăm mặt mũi. Nghề làm nhục tổ tông ở đây là… trong đầu mấy ông, chớ đâu phải Kiều!
Xem qua lịch sử, ở Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định, có những địa danh nổi tiếng mà ai hổng biết thì thôi, biết rồi thì… phải khoái hay chê theo nhân tâm tuỳ… mạng mỡ: Xóm Bình Khang, Ngã Ba Chú Ía, Cầu Hàn Tân Thuận… Sau này còn có Ngã Ba Sung Sướng, được dân giang hồ gọi là “hiệp khách hành” đến “hành lạc.” Mấy chốn này không phải là hư danh; từng có những câu chuyện người mất tiền, người mất tình, người mất… cả nết. Nhớ lại, nghe mà thấy đời mình như một cuốn cải lương dài bất tận, có trào phúng, có bi kịch.
Kỹ nữ bên Ta xưa chủ yếu vì chiến tranh, vì nghèo đói. Không đất cát, không ruộng vườn, không vốn, họ chỉ còn “vốn tự có”: sắc đẹp, giọng hát, cái nghề khéo léo mua vui. Có cô còn khéo đến mức vừa bán thân, vừa ca hát, vừa dạy khách làm thơ, vừa pha trà, vừa chơi cờ. Nói cách khác, một cô kỹ nữ đúng nghĩa là đa năng, mà thời ấy, chưa có trường lớp nào dạy đa năng cả.
Nhưng đời sống mưu sinh của các cô cực khổ vô cùng. Buổi sáng ngồi bán thuốc lá lẻ buổi chiều em hát anh nghe kiếm đồng bạc lẻ, buổi tối ôm khách ru “ngủ đi cu”. Mưa gió, nắng chang chang, bệnh tật, bị má mì quản lý, bị quan lại quát mắng… tất cả hợp thành một bức tranh vừa buồn vừa… kinh doanh nghề xưa như trái đất.
Trong văn học cải lương, chúng ta thấy các nghệ sĩ như Út Bạch Lan, Bạch Tuyết hay Phượng Liên, mỗi lần lên sân khấu là khán giả khóc theo. Họ khóc cho thân phận người kỹ nữ, cho cuộc đời lỡ dở, chớ không khóc vì tiền vé. Văn học Việt Nam có cái hay: dẫu phê phán xã hội, vẫn tôn trọng nỗi đau con người. Và đó là điều khác biệt so với nhiều nền văn hóa khác, nơi kỹ nữ thường bị coi là “tội lỗi” và bị lãng quên.
Một điều thú vị là kỹ nữ Việt Nam xưa không chỉ là nạn nhân. Họ cũng là những người chiến đấu để sống còn. Nhiều cô vừa bán mình vừa học chữ, vừa biết tính toán chi tiêu, vừa biết nhìn trước nhìn sau. Một số trở thành chủ lầu xanh, làm ăn đàng hoàng, nuôi em út để mà bóc lột rồi bóc lũm. Vẫn biết rằng xã hội nhìn họ bằng ánh mắt khinh miệt, nhưng trong lặng lẽ, họ nuôi dưỡng thái độ bất cần đời “Mackeno” ( dịch là mặc kệ nó).
Câu chuyện về các kỹ nữ còn đi vào lịch sử xã hội. Một ví dụ nhỏ mà không kém phần thú vị: cuối năm, một tổ chức từ thiện gây quỹ “Cây Mùa Xuân” kêu gọi giúp người nghèo có tí tiền còm ăn Tết. Buổi gây quỹ đìu hiu vì ai cũng mạt. Bỗng một “má mì” quản lý hơn chục kỹ viện, có hàng trăm kỹ nữ, nhảy lên tuyên bố: “Tôi xin hiến tặng năm chục triệu!”
Bà trưởng ban tổ chức hơi e dè: “Dạ, tụi tui cần tiền thiệt, nhưng những đồng tiền nhơ nhớp này…”
Một chính trị gia ngồi hàng đầu vọt miệng: “Bà cứ nhận đi! Tiền của anh em chúng tôi cả đó mà!”
Nhìn chung, kỹ nữ bên Ta vừa giống kỹ nữ bên Tàu, vừa khác. Giống ở chỗ: nghèo, bất đắc dĩ, phận người hẩm hiu. Khác ở chỗ: văn học Việt Nam đã tôn vinh họ qua cải lương, thơ ca, văn học, làm họ không bị quên lãng hoàn toàn. Dù mấy chị em ta là biểu tượng của bất đắc dĩ phải xài cái vốn tự có để sinh tồn.
Dẫu vậy, xã hội vẫn phũ phàng. Khi kinh tế phát triển, khi đô thị hóa ồ ạt, các địa danh nổi tiếng ngày xưa biến mất, các kỹ nữ phải rời bỏ nghề, hoặc tìm đường khác. Một số tiếp tục nghề bất hợp pháp, một số về quê sống đời bi đát vì dung nhan em giờ quá đát (date)
Phần lớn, câu chuyện của họ biến mất theo thời gian, chỉ còn lại trên sân khấu cải lương, trên trang sách, hay trong truyện Thuý Kiều phải bán mình chuộc cha: Có ba trăm lạng việc nầy mới xong.’
Nhưng mỗi khi nghe tiếng hát vọng lại từ những bài ca xưa, từ tấm hình cũ, hay từ một vở cải lương, ta vẫn thấy cái phận hồng nhan, cái niềm đau của các nàng kỹ nữ.
Cuối cùng, kỹ nữ bên Tàu, bên Tây, bên Ta là một phần của lịch sử và văn hóa. Họ dạy cho chúng ta hiểu về lòng thương cảm, về sự sống còn trong khó khăn, về cái đẹp bất đắc dĩ mà vẫn rực rỡ. Họ cũng dạy về nghịch lý xã hội: thương thì thương mà vẫn phải bóc em ra mà lột, tôn vinh thì tôn vinh mà vẫn nhìn bằng con mắt khinh miệt. Và có lẽ, đó là lý do tại sao, dù xưa hay nay, hình ảnh kỹ nữ vẫn luôn khiến người ta vừa cười vừa mếu.
Nhìn lại, kỹ nữ bên Ta, cũng như bên Tàu hay bên Tây, đều là biểu tượng của con người trong hoàn cảnh của lựa chọn sinh tồn, của cái đẹp và bi kịch đồng thời. Mỗi cô gái đều có câu chuyện, đều có giấc mơ, đều có trái tim… và đều để lại dấu ấn trong văn hóa dân tộc.
Nhìn kỹ nữ bên Ta, ta không chỉ thương, mà còn học cách cảm thông, học cách nhìn đời bằng đôi mắt biết yêu thương và trân trọng, dù cuộc sống có khắc nghiệt đến đâu.




























