Khi mở cửa bước ra sân sau, cả hai bố con tôi đều đứng sững, mở lớn mắt nhìn.
– Có cây hoa đào con ơi! Bố tôi kêu khẽ ngạc nhiên.
– Dạ, hoa đào.
Tôi đáp nhỏ rồi đứng lặng ngắm bầy ong bé tí đang lượn quanh những bông hoa vừa hé nở. Dạo ấy, khoảng giữa tháng Hai, mận đào ở Mỹ đang độ khai hoa. Những cánh hoa hồng thắm, mong manh trong nắng sớm gây trong tôi một niềm xúc cảm êm đềm và nhẹ nhàng nhưng sâu đậm. Lâu lắm, tôi mới lại nhìn thấy hoa đào.
Trí tưởng của tôi bỗng quay nhanh về một thành phố cũ, nơi mà tôi đã lớn lên và đã ướp đẫm tuổi thơ của mình bằng hàng trăm loại hương hoa: hoa hồng, hoa ngũ sắc, hoa rẽ quạt, hoa bìm bìm, hoa dạ lý, hoa mận…; và tất nhiên là phải có hoa đào. Nói một cách hơi quá ướt át, người ta vẫn gọi đó là “xứ hoa đào” mà.
Tôi thấy rõ ràng là mình đang lơn tơn, hớn hở trên đường đến trường vào một buổi sáng tinh mơ. Con đường Thủ Khoa Huân nhỏ hẹp, thoai thoải dốc, cần cận những viên đá bạc đầu dưới mỗi bước chân đi. Hai bên đường, chen lẫn giữa những bụi hoa quỳ man dại, là những cành mai mềm mại ẻo lả vươn cao – lấm tấm điểm những cánh hoa còn ướt đẫm sương đêm.
Cùng lúc, bố tôi (chắc) cũng đang đi lại trên một con đường nào đó của riêng ông. Rất có thể đó là một con đường rừng rực rỡ mai vàng – giữa vùng biên giới Hoa Việt – khi mà ông chưa lập gia đình, và vào lúc mà chuyện đánh đuổi thực dân còn là điều làm say lòng cả một thế hệ người.
Mẹ tôi cũng kêu lên thích thú :
-Có cả cây hoa đào và cây chanh nữa hả con!
-Vâng…
Tôi nói “vâng” lí nhí mà lòng thì sung sướng hãnh diện, như thể chính mình là kẻ đã gieo trồng vun xới hai cây đào và cây chanh đó vậy. Sự thực, trước đó một tuần, khi đi xem nhà vào ban đêm, tôi không hề biết rằng vườn sau có cây trái gì cả. Tìm được một căn nhà ở khu yên tĩnh, giá thuê vừa phải, và người ta không để ý đến sự dị biệt màu da hay màu tóc đã đủ làm tôi mừng quýnh đi rồi.
Bữa cơm đầu tiên nơi căn nhà mới chúng tôi ăn với thịt gà luộc chấm muối tiêu và lá chanh thái chỉ. Mẹ tôi xuýt xoa khen ngon và quên bẵng đi cái tội “mềm nhũn” của những con gà Mỹ.
Như thường lệ, bố tôi vẫn giữ im lặng nhưng chỉ cần nhìn ánh mắt của ông là tôi đã nhận thấy có sự hài lòng. Cả ngày hôm ấy, và nhiều ngày tháng kế tiếp nữa, chúng tôi đều rất bận và vui – sự vui thích mà đã có lúc tôi ngỡ rằng sẽ không bao giờ còn tìm lại được trên nét mặt của bố mẹ già nữa.
Trước đó một năm, cũng đã có lúc gia đình tôi sống rất an vui. Đó là thời gian tôi vừa đón bố mẹ từ quê nhà sang, theo chương trình đoàn tụ gia đình. Nhưng rồi sau đó không lâu là những ngày tháng buồn bã, tẻ nhạt khiến tôi vô cùng bối rối và khổ sở.
Vì không lường trước, và cũng vì sự giới hạn của tiền bạc, tôi đã “nhốt” bố mẹ già gần cả năm dài, sau bốn bức tường, trong một chung cư ở thành phố San Jose, California. Khi niềm vui đoàn tụ đã qua đi, và khi mà cả hai người đều bắt đầu có triệu chứng chết héo giữa đất lạ xứ người thì tôi đâm hoảng.
Việc đầu tiên là tôi vội vàng đưa bố mẹ đi chùa. Trời Phật ơi, chùa ở Mỹ sao mà nhỏ xíu và vắng ngắt vậy nè. Vào ngày lễ lớn chùa có đông người thì bên ngoài không còn chỗ đậu xe, và bên trong thì không đủ chỗ ngồi.
– Sao chùa chiền ở đây giống y như nhà ở thế hả con?
Sự thực thì đó đúng là cái nhà chứ còn “giống như” gì nữa. Tôi không hiểu, và cũng không dám hỏi xem, căn nhà đó thuê hay mua trả góp. Và dù mua hay thuê, bằng cách nào mà vị sư trụ trì trả nổi một số tiền cho căn nhà bốn phòng – đối với riêng tôi – đúng là một điều “mầu nhiệm”.
Sau đó, tôi đưa bố mẹ đi phố Tàu, với lời giải thích ba hoa rằng “vào đây bố mẹ sẽ thấy thoải mái y như thể là mình đang đi trong Chợ Lớn ở Sài Gòn vậy.”
Kể cả vào mùa Hè, thời tiết của thành phố San Francisco dường như vẫn cứ hơi quá lạnh đối với sức khỏe mong manh của bố mẹ tôi. Nhìn hai ông bà già co ro, ngơ ngác giữa những hè phố luôn luôn chen chúc người đi mà không dưng ruột tôi muốn… đứt.
Rõ ràng là bố mẹ tôi không thấy “thoải mái” một tí nào cả. Không bao lâu cả hai người đều than là nhức đầu và chóng mặt. Chính tôi, tôi cũng cảm thấy … y như vậy!
Vì thiếu đất nên Chinatown ở San Francisco chỉ có thể phát triển theo chiều cao. Cùng với cái lối kiến trúc dọc này là cái tính hay bày biện lộn xộn và hay chưng hoa kết đèn của người Trung Hoa khiến cho đôi mắt của du khách lạc vào khu phố của họ phải điều tiết quá nhiều nên ai cũng phải chóng mặt – kể cả những người họ Tưởng!
Nếu bố mẹ tôi biết được rằng trong một phạm vi chỉ có hai mươi bốn lốc đường mà chứa lúc nhúc đến bốn chục ngàn người, mật độ cao nhất thế giới, lúc nào cũng nói năng ồn ào xí xa xí xồ (cứ y như là họ đang cãi nhau vậy) thì hai người còn nhức đầu dữ nữa.
Chúng tôi vội vã chạy ra khỏi khu rừng người vô duyên đó. Loanh quanh một lát, tôi đưa bố mẹ đi khoe cầu treo Golden Gate, nơi mà vẫn theo lời tôi là “to và dài nhất hoàn cầu.”
Bố tôi nhìn cái cầu với đôi mắt lãnh đạm như thể là người ta nhìn thấy cây viết hay cục tẩy trên bàn. Mẹ tôi thì quan sát trầm ngâm một lúc rồi lẩm bẩm :
– Theo mẹ thì mình cứ xây độ một trăm cái cột chống cho nó an toàn, con ạ. Chả tội gì phải để nó chông chênh như thế.
– Vâng, mẹ dạy như thế là phải!
Tôi đáp cho qua chuyện rồi lặng lẽ đưa hai người trở lại xe. Trên đường về tôi câm như hến vì lòng buồn quá. Bố mẹ tôi thì mệt quá nên cũng chả ai nói năng gì.
Trong xe, tôi đã mua sẵn mấy băng nhạc cải lương. Điều đáng tiếc là tuy hai ông bà cũng thích nghe cổ nhạc miền Nam nhưng không thích lắm. Hai người có vẻ ưa nghe ngâm thơ giọng Bắc hơn.
Tôi lại chỉ tìm được mỗi một cuốn băng của Hồ Điệp thôi nên đã có lúc “đành” phải vào phòng, đóng kín cửa lại, vừa dạo đàn, vừa ngâm một số những bài thơ (do chính tôi sáng tác) để “cống hiến” cho bố mẹ già, vào lúc mà không khí gia đình buồn tẻ hay nhạt nhẽo.
Khi còn trẻ, mỗi lần uống rượu say, ở bất cứ nơi đâu, tôi cũng đều bắt mọi người “phải” im lặng nghe tôi ngâm thơ. Dù chưa bao giờ bị ai đánh vì chuyện này, không hiểu sao, từ khi qua tuổi bốn mươi tôi “bỗng” trở nên biết điều hơn. Tôi vẫn say rượu, thỉnh thoảng, nhưng cái vụ ngâm thơ hay ca hát thì bỏ hẳn.
Tuy thế, tôi vẫn không từ bỏ niềm tin vào “làn hơi thiên phú” của mình. Nếu nó không giúp tôi hái ra tiền thì ít nhất nó cũng đủ làm cho bố mẹ tôi vui. Tôi đã tưởng thế, vì cũng như bao nhiêu bà mẹ “điên khùng” khác trên cuộc đời này, mẹ tôi rất thích bất cứ cái gì do con mình làm ra. Bà cụ cứ nghe đi nghe lại mãi cuộn băng này.
Điều may mắn là bố tôi thì khác. Ông tỉnh táo và khách quan hơn. Đợi vào lúc mẹ tôi không có mặt, ông nhỏ nhẹ nói :
– Con ngâm thơ bố thấy cũng hay, nhưng giá con đừng làm như vậy nữa thì …hay hơn nhiều.
Vậy là những cuộn băng “đặc biệt” ấy phải chìm vào quên lãng. Sau vụ đó, tôi chuyển sang băng nhựa video. Không phải là tôi làm hề rồi tự thu băng để chiếu lại cho bố mẹ già giải trí như Lão Lai bên Tàu đã làm hồi xưa đâu. Nói thiệt tình là tôi chơi không tới cỡ đó. Chỉ vì thấy truyện chưởng Kim Dung được quay thành phim video và chuyển âm sang tiếng Việt nên tôi vội vàng đi mua máy, mướn phim về để cả đống ở nhà.
Những tác giả ngoại quốc tôi ít khi để ý, trừ Kim Dung. Nếu không tình cờ gặp ông vào năm mười tuổi, có lẽ tôi (cũng) đã thi đậu vào đệ thất của một trường công lập ngay từ keo đầu rồi.
Tôi hy vọng không khí trong gia đình sẽ đỡ tẻ nhạt hơn nếu bố mẹ tôi chịu ngồi xem phim chưởng suốt ngày. Tối đến, tôi sẽ ba hoa liến thoắng bàn thêm cảnh Tạ Tốn cướp đao trên Bàn Sơn Đảo. Nếu bố mẹ tôi chưa hiểu rõ về công phu Sư Tử Hống hay về sự khác biệt giữa phe Kiếm Tông và Khí Tông trong phái Hoa Sơn thì đúng là những cơ hội bằng vàng để tôi có dịp khoe khoang về kiến thức (trời biển) của mình.
Tiếc thay, bố mẹ tôi chả hề để mắt đến những cuộn phim thổ tả đó. Theo lời ông cụ thì “chúng nó nói một thứ tiếng Việt không phải của người Việt.” Còn mẹ tôi thì chỉ sau một show ác đấu ngắn ngủi của Kiều Phong, ở Tụ Hiền Trang, bà đã vội vã chạy ngay vào phòng đọc … kinh cầu siêu – từ trưa cho đến tối.
Dù vẫn bị mang tiếng là hơi chậm hiểu, cuối cùng, tôi cũng nhận ra được sự thiếu thốn, mất mát lớn lao trong đời sống của hai người – nơi xứ lạ quê người. Họ cần một miếng đất. Họ phải sống trên đất, gần đất và với đất. Trải thảm, tráng xi măng, lót nhựa đường để che hết đất là giết chết con người – Giời ạ.
Tôi nhớ đến hôm đi San Francisco về, mẹ tôi đã nhìn những đồi cỏ bát ngát và chép miệng:
– Đất bỏ hoang nhiều quá, hoài của thật con nhỉ ?
Tôi vội vàng cải chính:
– Đâu có, mẹ. Nông trại cả đấy chứ. Mẹ không thấy người ta nuôi bò và ngựa trên đó sao?
– Ừ nhỉ! Thế mà mẹ cứ tưởng… Sao người ta lắm đất thế mà mình …
Thế là tôi xin việc làm thêm, cố gắng dành dụm một số tiền nhỏ đủ để đặt cọc thuê được một căn nhà. Nhà mới tuy bé nhỏ nhưng vẫn có đủ sân trước, vườn sau, nằm ở khu an ninh và toàn người láng giềng da trắng đàng hoàng sạch sẽ. Đã thế, chúng tôi còn có sẵn cả cây chanh và cây hoa anh đào nữa.
Thời gian sau đó, gia đình tôi sống rất yên vui và ổn thỏa. Vào mùa Hè, khi tôi từ sở làm về trời vẫn còn nắng chói chang. Mở cửa vào nhà xong là tôi bước ngay ra sau vườn. Bao giờ bố tôi cũng đang ngồi uống trà dưới gốc cây đào. Mẹ tôi thì lui hui bận rộn với những luống rau bé bỏng của bà. Gần như từ sáng sớm cho mãi đến khi chiều tối, lúc nào bố mẹ tôi cũng sống ở ngoài vườn.
Chúng tôi phân định mảnh đất tí teo vừa thuê được ra làm nhiều phần rất là rõ rệt. Bố tôi chăm sóc cây đào, cây chanh và giàn hoa giấy màu xác pháo ở cổng vào. Rẻo đất phía trước cũng là nơi để ông trồng hoa cúc.
Phần tôi, tôi chỉ xin một góc cỏn con, vô cùng khiêm tốn để gieo một ít poppy và trồng mấy cụm pansy thôi.
Chả hiểu bố tôi có kỷ niệm gì với loài hoa cúc đại đóa hay không; riêng tôi, hai loài hoa vừa kể đều là những hoài niệm (thê thảm) về hai mối tình te tua và bầm dập của mình. Cho mãi đến bây giờ, tôi vẫn không hiểu sao, “đường tình duyên” của mình lại ít may mắn thế.
Nguyên cả mảnh vườn sau là giang sơn riêng của mẹ tôi, một giang sơn nhỏ hẹp nhưng vô cùng phong phú. Tôi cuốc một luống đất dài để mẹ trồng đủ loại rau thơm: rau húng quế, húng lủi, húng trắng, tía tô, kinh giới … Tất nhiên phải có hành, ngò với sả nữa.
Người ta không mấy khi có dịp làm được một món ăn với sả ở Hoa Kỳ. Nhưng có hề chi. Đâu ai cố gây và giữ cho được một bụi sả chỉ vì nó cần cho nồi cà ri hay cho món thịt bò kho. Điều cần là thỉnh thoảng, khi buồn, mình có thể ngắt một lá sả vò nhẹ trong tay, rồi đưa lên mũi để hít thở được hương vị của (cả) quê hương thoang thoảng, nhẹ nhàng trong đó.
Mẹ tôi còn thích có một hàng cải bẹ xanh, xanh thật là xanh, để vào những lúc nắng nhạt bà có dịp nhìn thấy vài đôi bướm trắng chờn vờn trên những luống hoa vàng. Luống đất còn lại chúng tôi gieo hạt rau dền, rau cúc, và rau muống – những thứ rau mà tôi biết rằng nếu thiếu đi thì cuộc đời mẹ tôi kể như là… vô nghĩa.
Phần đất sát với bờ rào của nhà bên cạnh thì tôi làm giàn cây để cho khổ qua, bầu, và mướp có chỗ leo. Tôi không ưa hoa bầu và hoa mướp đâu. Coi vô duyên thấy mẹ. Nhưng với giàn khổ qua thâm thấp, lá xanh sắc, nhỏ nhắn, xinh xắn, điểm những hoa vàng nhỏ li ti thì trông xinh và thương lắm.
Tôi “dọa” mẹ rằng :
– Bầu ở Mỹ tốt lắm mẹ nhá. Quả nào cũng dài lê thê đến chấm đất luôn.
– Hay quá, hả con.
– Dạ.
Tôi “dạ” ngọt như đường cát, mát như đường phèn. Thế là bữa cơm tối nào gia đình tôi cũng có chuyện để nói. Và toàn những chuyện vui. Mẹ tôi có lúc xuýt xoa:
– Bắp của Mỹ lạ lắm con nhá. Mẹ mới gieo có hai hôm mà đã lên cao cả gang tay.
– Dạ.
Tôi lại “dạ” dịu dàng rồi vội vã thêm:
– Ở đây nó thế mẹ ạ.
– Hay nhỉ.
Tôi thấy hãnh diện cho giàn bầu và mấy cây bắp con con quá. Sau hơn một năm ở Mỹ, mọi thứ đều bị mẹ tôi coi thường, kể cả “cái cầu treo dài nhất thế giới”; chỉ riêng có hai giống thực vật vừa kể là nhận được hai câu khen tặng “hay quá” và “hay nhỉ” ngắn ngủi hiếm hoi thôi.
Có hôm đang bữa cơm bỗng mẹ tôi buông đũa, hốt hoảng kêu :
– Thôi chết rồi, con ơi!
– Sao hả mẹ?
– Mẹ quên nói với con là mấy cây rau ngò om và rau răm vừa mới nhú lên thì đã bị ốc sên cắn mất mấy cái lá rồi.
Trời, chuyện nhân quyền bị vi phạm ở Tàu, ở Cuba, ở Bắc Hàn, ở Việt Nam hay ở đâu đó thì tôi đành bỏ qua; chứ còn cái thứ ốc sên mà cũng bày đặt hoành hành ngay sân sau nhà tôi thì đâu có được.
Tôi bỏ dở bữa cơm, hùng hổ lái xe ngay đến Kmart vác mấy hộp thuốc trừ sên về rải khắp vườn. Thỉnh thoảng, còn có dịp chứng tỏ cho mẹ thấy là mình chưa hoàn toàn vô dụng khiến tôi thấy … khỏe trong người hết sức.
Bố tôi vẫn thường giữ im lặng như bản tính xưa nay của ông; tuy thế, khi nhìn thấy rau thơm trồng ở ngoài vườn đã được ông cụ chiếu cố làm cho tôi thực sự thấy rất yên lòng.
Tôi nhớ mãi ngày đầu tiên đưa bố mẹ đi ăn phở ở California. Ông cứ cầm cọng rau húng quế mãi trên tay, ngắm nghía thật lâu, vò nát một góc lá, đưa lên mũi ngửi rồi vứt xuống bàn. Tôi đã thấy nhiều người tỏ sự thất vọng và khó chịu vì mùi vị nhạt nhẽo của những cây rau thơm trồng ở Mỹ, nhưng chưa thấy ai biểu lộ một thái độ chán chường đến thế.
Chao ơi, ngay cái giây phút đó sao tôi khổ quá. Tôi chỉ muốn chết cho rồi. Tôi thương bố tôi đến chảy nước mắt và thấy ái ngại cho những cây rau thơm mọc ở xứ người. Lá của chúng cứ mỗi ngày một lớn, và hương thơm thì cứ theo thời gian mà nhạt dần đi. Cứ y như đám Việt kiều vậy, mỗi lúc một thêm béo tốt và … nhạt nhẽo!
Rau thơm trồng sau vườn cũng chả thơm gì mấy, nhưng khi nhìn thấy bố tôi nhẫn nại ngắt từng lá bỏ vào chén khiến tôi thấy vô cùng an ủi.
Tôi đã nghĩ là phải tìm cách mua cho được căn nhà đó, phải mua bằng được một nơi trú thật an ổn cho bố mẹ già.
Chỉ cần cố gắng thêm một thời gian nữa, thời gian đủ cho chúng tôi để dành được một số tiền thế chân chừng mười phần trăm là có thể nói chuyện mua bán được rồi.
Tôi cũng đã mường tượng trước là sẽ trồng thêm cho mẹ một cây bơ, và mấy cây anh đào che kín vườn sau cho bố. Rồi ra, căn nhà của chúng tôi sẽ rực rỡ hoa đào – vào mỗi độ xuân về.
Cái mùa xuân rực rỡ đó, tiếc thay, đã không bao giờ đến. Biến cố đến trước mùa hoa đào nở. Có hôm, người quản lý khu phố điện thoại vào tận chỗ tôi làm việc, với giọng gắt gỏng:
– Ê, daddy của mày sao kỳ quá?
– Kỳ cái gì?
– Ổng cứ mặc đồ ngủ đi vòng vòng hoài hà. Hàng xóm họ nghĩ ông điên.
Mà ổng có “bị sao” không vậy?
Tôi ngọng. Sự thực là bố tôi rất hay mặc một bộ quần áo pijama trắng, đội cái nón nỉ, khoác thêm chiếc áo bành, và cầm một cây gậy đi dạo mỗi sáng “cho nó khỏe người”.
Hình ảnh này đối với tôi bình thường và quen mắt quá. Tôi quen với nó ngay từ ngày bố tôi chưa phải cầm gậy, và thay vào đó là ông cầm bàn tay bé bỏng của tôi kìa. Tôi thấy như vậy “có sao” đâu?
Sau đó đến chuyện của mẹ tôi. Bà cụ có hàm răng đen. Và cũng cứ theo lời thằng cha quản lý khu phố thì bà cụ hay cười, và nụ cười của bà “khiến nhiều người sợ hãi.”
Hắn làm tôi nghĩ ngay đến một bà cụ quê mùa, nhỏ bé loắt choắt, lúc nào cũng đội xùm xụp chiếc khăn mỏ quạ, thỉnh thoảng đi lại ngoài đường, gặp ai cũng nở một nụ cười … ngờ nghệch. Hình ảnh này đối với một số người Hoa Kỳ quả là “khó coi,” đó là chưa kể đến hàm răng đen.
Tôi không hề nghĩ đến điều đó vì – trong những năm dài xa cách – mỗi khi nhớ đến mẹ tôi chỉ thấy hình ảnh của bà khi mình còn bé tí, đi đâu cũng nắm chặt chéo áo của mẹ thôi. Thuở ấy, răng của mẹ tôi đen huyền, môi hồng cắn chỉ. Dù có thêm bao nhiêu ngàn năm nữa qua đi thì mẹ tôi vẫn cứ mãi mãi đẹp đẽ và xinh tươi như thế, chứ vĩnh viễn chả bao giờ có gì “khó coi” cả.
Cuối cùng là chuyện mấy con gà. Đàn gà mà mẹ tôi vô cùng hãnh diện vì lúc khởi đầu nuôi chỉ có mấy con thôi mà chả bao lâu nhà tôi đã biến thành “trại gia cầm.”
Hàng xóm than phiền là họ không ngủ được vì tiếng gà gáy sáng. Thế mà cả hai mẹ con tôi vẫn cứ ngỡ là mình đã mang lại cho cả khu phố cái không khí thôn dã, êm đềm nhờ vào tiếng gà gáy (trong trẻo) vào mỗi sáng.
Tôi có thể thuyết phục bố tôi thôi đừng đi dạo với bộ quần áo ngủ, năn nỉ mẹ tôi đừng tiếp tục nuôi gà nhưng tôi không biết làm thế nào ngăn được ác cảm và thành kiến của người dân bản xứ. Và rồi chuyện phải đến, đã đến.
Người quản lý báo cho tôi biết họ cần lấy lại nhà để sửa. Tôi hiểu đó chỉ là một cái cớ nên năn nỉ xin ở lại và đề nghị trả tiền thêm. Tôi cũng cố giải thích cho hắn hiểu là bố mẹ tôi sẽ… chết nếu sống không có đất.
Cuối cùng hắn đành nói thực:
– Từ khi tụi mày dọn tới đây khu phố ngó bộ muốn xuống giá. Chủ nhà, chủ đất nó đâu muốn như vậy. Tao chỉ là thằng làm mướn cho tụi nó thôi. Nó biểu sao là tao làm vậy hà.
Thế là thôi. Thôi giã từ căn nhà có hoa anh đào, có hương hoa chanh thoang thoảng mỗi sáng, có bầy ong nhỏ loanh quanh bên giàn khổ qua xanh lá mỗi trưa, có đôi bướm trắng chờn vờn trên những luống cải lấm tấm điểm bông vàng vào những buổi chiều nhạt nắng. Người ta không thể mượn một mảnh đất để làm quê hương, dù chỉ là mượn tạm để cho bố mẹ già nương náu cho hết những ngày tàn còn lại.