Một MAGA Mít khoe rằng: “Bảo đảm với ông là thân nhân của tôi qua Mỹ đều hợp pháp cả. Ông ở bên Úc, đâu có nhìn thấy những sự việc xảy ra tại Mỹ, mà ông ở bên Úc chỉ nhìn qua hình ảnh và tin tức của CNN, CBC, ABC,… mà thôi, họ không nói sự thật, những người vào Mỹ này đa số là thành phần bất hảo và tội phạm cả, trục xuất là phải. Có thì giờ thì qua Mỹ để nhìn thấy các thành phố bị phá phách bởi họ.”
Ông ni cho rằng người nhập cư vào Mỹ, đặc biệt là những người không có giấy tờ, đều là thành phần tội phạm, và phải bị trục xuất. Lập luận này hoàn toàn sai lệch và thiếu cơ sở khoa học. Các nghiên cứu cho thấy người nhập cư không giấy tờ có tỷ lệ phạm tội thấp hơn so với dân số bản địa.
Nghiên cứu của Cato Institute (2018) cho thấy, người nhập cư không giấy tờ chiếm 5% dân số Mỹ nhưng chỉ chiếm khoảng 1.6% các vụ phạm tội bạo lực. Điều này chứng tỏ rằng người nhập cư không phải là nguyên nhân chính dẫn đến tội phạm hay sự phá phách tại các thành phố.
Về mặt báo chí, ông ni cũng hoàn toàn thiếu hiểu biết về nghề báo tại Mỹ. Những nhà báo Mỹ, dù không có giấy phép hành nghề chính thức như bác sĩ hay luật sư, nhưng họ vẫn phải tuân thủ một bộ quy tắc đạo đức rất nghiêm ngặt. Các quy tắc này yêu cầu họ phải luôn tìm kiếm sự thật, tường thuật trung thực, giảm thiểu tổn hại cho những đối tượng dễ bị tổn thương, và hành động độc lập, không chịu ảnh hưởng của lợi ích cá nhân.
Khi ông ni ca ngợi chính sách di trú dưới thời Donald Trump, tôi không khỏi ngạc nhiên. Chính sách của Trump không chỉ phân biệt mà còn đầy bất công. Ông Trump gọi người nhập cư từ Mexico là “kẻ hiếp dâm” và “kẻ buôn bán ma túy,” những lời lẽ miệt thị này đi ngược lại với các giá trị nhân văn mà nước Mỹ từng bảo vệ.
Công lý là cái mà ông Trump thiếu sót, và ông có vẻ đã quên mất rằng nước Mỹ thành hình là do dân nhập cư.
Thuyền Mayflower chở nhóm Pilgrims (người di cư) từ Anh sang Mỹ vào năm 1620.
Nước Mỹ không chỉ là nơi bảo vệ quyền lợi của công dân, mà còn là nơi chào đón những ai đang cần sự giúp đỡ. Bức tường biên giới mà Trump xây dựng không phải là giải pháp, mà là hành động tàn nhẫn, chia rẽ và không có lòng nhân ái.
Dưới chân Tượng Nữ Thần Tự Do nổi tiếng, có khắc những lời thơ của Emma Lazarus:
“Hãy gửi cho tôi những kẻ mệt mỏi, những kẻ nghèo khổ,
Những đám đông chen chúc khao khát được tự do,
Những kẻ bị ruồng bỏ trên bờ biển đầy rẫy.
Hãy gửi cho tôi những kẻ vô gia cư, bị giông bão cuốn đi,
Tôi nâng ngọn đèn của mình bên cửa vàng!”
Lời thơ này không chỉ là lời chào đón đối với những người nghèo khổ, mà còn là nhắc nhở về giá trị nhân văn mà Mỹ đã xây dựng qua hàng thế kỷ. Đáng tiếc, ông ni có lẽ chưa bao giờ đọc qua những lời này, hoặc nếu có, ông cũng chỉ xem đó là những lời vô nghĩa. Thực tế là, nước Mỹ đã từng là ngôi nhà cho những người khốn khó, và giá trị này không thể bị xóa nhòa bởi những chính sách phân biệt.
Đức Giáo Hoàng Francisco đã nhiều lần lên tiếng về vấn đề nhập cư. Ngài nhấn mạnh rằng mọi người đều có quyền được bảo vệ, đặc biệt là những ai đang chạy trốn khỏi chiến tranh và nghèo đói. Các quốc gia, theo Ngài, cần mở rộng cánh cửa để đón nhận họ, và giá trị bao dung, nhân ái phải luôn được đặt lên hàng đầu trong các chính sách di trú.
Chính những lời kêu gọi này từ Đức Giáo Hoàng phản ánh một tầm nhìn nhân đạo đối với vấn đề nhập cư, hoàn toàn trái ngược với quan điểm phân biệt và bảo thủ mà ông ni đang bảo vệ.
Nguyễn Trãi trong “Gia huấn ca” đã dạy rằng:
“Thấy ai đói rách thì thương,
Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn.
Thương người như thể thương thân,
Người ta phải bước khó khăn đến nhà.”
Lời dạy này không chỉ là bài học về đạo đức mà còn là bài học về sự yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau. Chúng ta không thể quay lưng với nỗi đau của đồng loại, không thể đứng ngoài cuộc khi người khác đang gặp khó khăn. Những lời chỉ trích vô cảm của ông ni thực sự là một sự xúc phạm đối với giá trị mà chúng ta, những người Việt Nam, đã được dạy bảo từ xưa.
Chỉ có súc vật mới quay lưng với nỗi đau của đồng loại
Ông ni có thể tự hào về quan điểm của mình, nhưng thực tế ông đang đứng về phía của những chính sách vô nhân đạo, chống lại những giá trị nhân bản mà chúng ta luôn tôn trọng. Nếu ông thực sự hiểu được bài học của Nguyễn Trãi, ông sẽ không bao giờ phát ngôn những lời độc ác về những người nhập cư đang tìm kiếm cơ hội sống sót tại đất Mỹ.
Chỉ có những kẻ vô cảm, thiếu tình thương mới quay lưng với nỗi đau của đồng loại. Một người có trái tim không thể đồng tình với những hành động tàn nhẫn, và ông ni đáng tiếc, có vẻ như đã đánh mất trái tim mình từ lâu rồi.




























