Vĩnh biệt nhà văn Tiểu Tử – Võ Hoài Nam

Nhà văn Tiểu Tử – Võ Hoài Nam. (Hình: Namkyluctinh.org)

Người ta hay hỏi tôi: “Quê ông ở đâu?” Câu hỏi nghe giản dị, mà trả lời thì… khó hơn đi thi vô Petrus Ký. Bởi lẽ, cái quê của tôi, cái chỗ chôn nhau cắt rún, tôi đã bỏ ra đi từ lâu, từ cái thuở biển dâu, thời cuộc cuốn người ta ra khỏi vòng tay của ngõ xóm, của hàng dừa, hàng cau, của mái nhà lợp lá. Ấy thế mà, mỗi đêm khi nằm trên chiếc giường ấm áp, tôi vẫn thấy quê hương trở lại, rõ mồn một, như một bức tranh khắc sâu trong ký ức: nghèo trớt mùng tơi, mà vẫn thương, vẫn nhớ đến xót xa.

Có anh bạn văn thường nhậu nhẹt với tôi, hay hỏi vặn:

–Khi nào ông “dìa” quê?

–Muốn “dìa,” nhưng đâu biết quê đâu mà dìa!

Ảnh cười khề khà:

–Thôi thì ông tấp về quê tui đi, ngay đất Tân Định nè.

Nghe vậy mới ngớ người ra. Té ra, đối với ảnh, quê không phải là xứ khỉ ho cò gáy, chó ăn đá gà ăn muối, mà chính là mảnh đất Sài Gòn nơi mình cất tiếng khóc chào đời. Cái quê ấy có mùi khói thuốc rê, có tiếng guốc mộc của các bà, có những con hẻm nhỏ mà tuổi thơ rong chơi đánh lộn tới u đầu sứt trán.

Tân Định – cái đất ấy đã nuôi lớn bao thế hệ. Từ đường Trần Quang Khải, quẹo qua Trần Nhật Duật, thẳng tới bờ kinh Nhiêu Lộc, những con đường nhỏ như Đặng Dung, Đặng Tất, Trần Quý Khoách, Trần Khánh Dư, đã in dấu chân của học trò trường Văn Lang, của những giấc mộng tuổi trẻ. Và cũng từ nơi ấy, bao nhiêu phận đời đã bước ra, đi khắp năm châu, mà khi tóc bạc vẫn còn ngoái lại, nhớ da diết từng mái hiên, từng ngọn đèn đường.

Trong số những người đi qua đất Tân Định, có một người đặc biệt: nhà văn Tiểu Tử. Ông sinh năm 1932, tốt nghiệp kỹ sư tại Marseille, rồi về dạy tại trường Petrus Trương Vĩnh Ký vào những năm 1955–1956. Sau biến cố 1975, ông vượt biên, định cư ở Pháp, và từ đó, văn chương trở thành cách để ông bắc nhịp cầu nối giữa quá khứ và hiện tại.

Tôi biết đến Tiểu Tử qua truyện ngắn “Tô cháo huyết,” và khi nghe tin ông qua đời trên đất Pháp, lòng tôi bỗng dưng nghẹn lại.

Câu chuyện ông kể tưởng như vụn vặt, mà hóa ra thấm đẫm tình người, tình quê. Hình ảnh một người ngày xưa, trên đường đi làm về ghé xe cháo huyết của bà xẩm già ở gần rạp Casino Đa Kao. Bà bày cái nồi cháo nghi ngút khói, với vài miếng huyết vuông vức nổi lên trên. Ông múc một muỗng, vừa có cháo vừa có huyết, thổi cho nguội rồi cho vào miệng. Hương vị ấy, dân dã mà ấm áp, như gói cả hồn Tân Định.

Nhưng đời dân Sài Gòn sau cuộc đổi đời từ nghèo sang mạt sau Tháng Tư năm 1975 đâu phải lúc nào cũng có tiền. Có khi cả tháng rỗng túi, ông né luôn cái xe cháo của bà xẩm, chỉ vì sợ mình thèm. Cho đến một hôm, bà mời:

–Vô ăn đi thầy Hai, lâu quá mà…

–Tôi không có tiền! Ông đáp, thật thà đến bật khóc.

–Không có thì cũng vô ăn, chừng nào trả cũng được. Mình quen mà!

Ông viết: “Miếng cháo tôi đang nuốt bỗng nghẹn ngang ở cổ, làm tôi ứa nước mắt.”

Chao ôi! Một tô cháo huyết mà chan chứa nghĩa tình. Nó không còn là món ăn của bụng đói, mà là của tình người nơi xóm cũ. Để rồi hơn nửa thế kỷ sau, ở tận trời Âu, ông vẫn còn nhớ như in, nhớ đến nhói tim, nhớ đến mức viết thành một truyện ngắn để gửi gắm nỗi lòng.

Tôi đọc truyện ấy mà thấy mình rưng rưng buồn trong tấc dạ. Bởi mỗi người tha hương đều có một “tô cháo huyết” riêng trong ký ức. Với nhà văn Tiểu Tử, đó chính là xe cháo huyết của bà xẩm Tân Định. Và khi ông kể lại, không phải chỉ kể một món ăn, mà là kể về một quê hương đã mất, kể về cái tình người Sài Gòn xưa, kể về một thời mà “ăn chịu” không phải chuyện đáng xấu hổ, mà là biểu hiện của tin cậy, của chia sẻ, của đồng bào.

Tin ông mất khiến tôi buồn như mây chiều trôi. Hình dung nơi nghĩa trang lạnh lẽo ở Pháp, có một nấm mộ mới của một người từng viết: “Tôi đi để lại đường xưa.” Đường xưa ấy chính là Trần Quang Khải, Đinh Tiên Hoàng, Nguyễn Văn Giai, Bùi Hữu Nghĩa… những con đường quanh Tân Định, đã nuôi dưỡng tâm hồn và văn chương của ông.

Có lẽ, trong giây phút cuối đời, ông vẫn còn nhớ tô cháo huyết năm nào. Và chúng tôi, những kẻ hậu sinh, đọc văn ông mà thấy trong cổ họng mình cũng nghèn nghẹn, như chính ông đã nghẹn ngày xưa.

Giờ ngồi viết những dòng này, tôi nhớ tới bạn bè, nhớ tới những buổi nhậu lai rai mà kể chuyện quê xưa. Tôi nhớ tới cảnh học trò chen chúc thi vào Petrus Ký nơi nhà văn Tiểu Tử với cái tên Võ Hoài Nam tiền định sống phải xa quê.

Tôi nhớ tới nhà văn Tiểu Tử, một kiếp người long đong phiêu bạt, nhưng đã kịp để lại cho đời những trang văn chan chứa tình quê, tình người. Cái tên “Tiểu Tử” nghe thì nhỏ nhoi, mà văn ông lại lớn lao, bởi ông đã nói hộ cho cả một thế hệ lưu lạc: quê hương không bao giờ mất, nó sống mãi trong từng mùi vị, từng ký ức, từng khói bốc lên từ nồi cháo huyết chiều nào.

Thưa Thầy, ở phương trời xa ấy, xin Thầy an nghỉ. Trần gian này thiếu vắng Thầy, nhưng những dòng chữ Thầy để lại, những ký ức về một tô cháo huyết bình dị, sẽ còn sống mãi. Để cho những đứa con xa quê, mỗi lần nhớ Sài Gòn xưa, lại tìm thấy bóng dáng mình trong câu văn mộc mạc mà rưng rưng của Thầy.

Tôi viết mà mắt buồn như mây chiều trôi đời xa xứ.

***

Nhà văn Tiểu Tử Võ Hoài Nam, sinh năm 1930 tại Gò Dầu, Tây Ninh, là con của Giáo sư Võ Thành Cứ, dạy tại trường Trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn. Với xuất thân trí thức, học kỹ sư Hóa tại Marseille, Pháp, ông trở về trường cũ nơi thân phụ của ông dạy học môt niên khoá 1955-1956. Sau đó ông làm việc tại ngành xăng dầu. Biến cố 1975 làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời ông. Năm 1979, ông vượt biên sang Pháp, từng làm việc tại Côte d’Ivoire trước khi định cư tại Paris.

Điểm đặc biệt trong văn chương Tiểu Tử là dù xuất thân trí thức, ông viết về đời sống bình dân Nam Bộ với con mắt nhân bản và tấm lòng cảm thông sâu sắc. Văn phong của ông giản dị, duyên dáng và gần gũi, không màu mè, không bóng bẩy, nhưng lại thấm đẫm ký ức và tình người.

Trong truyện “Thầy Năm Chén,” Tiểu Tử kể về một thầy thuốc tận tâm, bị biến cố lịch sử vắt kiệt tài sản và sức lực, nhưng vẫn lo lắng cho con vượt biên: “Một cái gói mầu đỏ đã phai màu, cột làm nhiều gút… Cho con cái ni (ông già người gốc Huế). Con giữ trong người để hộ thân.”

Khi mở gói, thằng Kiệt tìm thấy ba cái răng vàng – những gì còn sót lại của gia tài vô sản, nhưng là vật hộ thân và biểu tượng tình cha con. Tiểu Tử bằng những chi tiết đời thường mà cảm động, khắc họa phận người trong cơn biến loạn: mất mát, chia ly, nhưng vẫn đầy tình thương.

Trong truyện “Ông Tư – Im lặng,” ông Tư, một tư sản mại bản, bí mật đóng góp tài chánh cho VC, nhưng sau 1975 lại bị hành hạ, gia sản bị tước đoạt. Nguyên văn: “Bỗng nhiên ông Tư nhận thức rằng tất cả những gì thuộc về ông bây giờ chỉ còn lại người vợ của ông đang chờ đợi ông ở nhà.” Câu chữ nhẹ nhàng mà sâu cay, thể hiện sự bất công của chính quyền CS với những con người đã từng ngây thơ trung thành, hi sinh, đồng thời phản ánh bi kịch chung của người dân Sài Gòn sau biến cố lịch sử.

Tiểu Tử cũng ghi lại nỗi lưu vong, nỗi nhớ quê hương, trong truyện “Bài ca vọng cổ.” Ở Côte d’Ivoire, ông gặp một thanh niên da đen, Jean, hát vọng cổ Việt Nam. Nguyên văn: “Trời ơi!… Bác là người Việt Nam hả?… Bao nhiêu năm nay con thèm gặp người Việt để nói chuyện cho đã. Bây giờ gặp bác, thiệt… con mừng ‘hết lớn’ bác à!”

Hình ảnh này minh họa sự kết nối dân tộc vượt không gian và màu da, nhắc nhở rằng văn hóa, ký ức, và tình người không bị rào cản bởi địa lý hay chính trị. Tiểu Tử đã dùng câu chuyện nhỏ này để làm nổi bật tình cảm quê hương và sự đồng cảm giữa người Việt lưu vong.

Trong truyện “Xíu,” Tiểu Tử kể về một cô gái gốc Hoa yêu một thanh niên Việt, nhưng tình yêu bị chia cắt sau 1975: “Xíu ngồi tựa cửa, tay bấu vào tấm chiếu cũ, nhìn ra đường. Thành phố yên lặng, nhưng tim bé lại rối bời… Người cô yêu giờ đã đi mất, chia lìa, như Sài Gòn vừa đánh mất ánh sáng tự do.” Truyện phản ánh bi kịch cá nhân gắn với biến cố lịch sử, thể hiện sự tan vỡ, mất mát nhưng vẫn chan chứa cảm thông và trân trọng.

Tiểu Tử đặc biệt chú ý tới những hành động bình dị nhưng giàu tính nhân văn. Trong truyện “Cha con ông Lê sau 75,” khi cha dẫn con ra bến tàu để vượt biên, nguyên văn: “Thằng con thòng tay vào dây thừng, nghiêng người nhìn xuống, mắt không khóc, miệng không nói. Người cha úp mặt vào hai tay, khóc ngất…” Chi tiết giản dị này gợi nỗi chia ly, tuyệt vọng và hy vọng đồng thời phản ánh cách Tiểu Tử làm cho đời sống bình dân trở nên thiêng liêng, ý nghĩa.

Trong truyện “Chiếc khăn mùi xoa,” kỷ vật của tuổi trẻ trở thành biểu tượng tình cảm giữa những người Việt ở quê và lưu vong: “Con Huê tiễn tao ra cổng… chỉ biết có một người tên Cương… Họ coi đó là tự nhiên như nước lớn, nước ròng.” Tình cảm chân thật, lặng lẽ nhưng mãnh liệt, thể hiện tình người, tình quê hương và giá trị ký ức trong văn học lưu vong.

Văn Tiểu Tử “rặc ròng Gò Dầu của đất Tây Ninh” với những tên gọi thân mật như Huê, Nhàn, Lúa, thầy Năm Chén, bà Năm Chiên, và câu chữ gần gũi: “nghen,” “héng,” “nghe.” Ông viết như kể chuyện bên ly cà phê, bên tô hủ tíu, giản dị nhưng duyên dáng. Trong hoàn cảnh lịch sử hỗn loạn, những câu chữ này vẫn tạo ra sự đồng cảm và ấm áp, nhắc nhở về văn hóa miền Nam, về những con người bình dân, chịu nhiều khổ đau nhưng không đánh mất nhân phẩm.

Võ Hoài Nam – Tiểu Tử – ra đi để lại Paris mùa thu, nhưng những nhân vật như Thầy Năm Chén, Xíu, cha con ông Lê, con Huê vẫn còn sống mãi trong ký ức và văn chương. Ông đã chứng kiến lịch sử, ghi lại phận người, và bằng ngòi bút giản dị mà thấm thía, nhắc chúng ta rằng: lịch sử có thể bị cưỡng đoạt, nhưng ký ức và tình người thì không ai xóa được.

Với 95 năm cuộc đời, Tiểu Tử đã hoàn tất thiên chức của một nhà văn lưu vong – nhân chứng lịch sử – người giữ lửa văn hóa Nam Bộ. Văn ông, giản dị nhưng đậm chất nhân văn, sẽ còn sống trong lòng độc giả Việt Nam, cả trong nước lẫn hải ngoại, như một minh chứng rằng ngôn ngữ và ký ức miền Nam không bao giờ phai nhạt.

***

Nhà văn Tiểu Tử Võ Hoài Nam đã qua đời trong giấc ngủ vào ngày 18 Tháng Chín năm 2025 tại Paris – thủ đô nước Pháp.

Tang lễ tiễn biệt sẽ được cử hành vào ngày thứ Năm, 25 Tháng Chín năm 2025, lúc 12 giờ trưa, tại Nhà hỏa táng Père-Lachaise, phòng BIGOT – nơi an nghỉ của nhiều nhân vật văn hóa, nghệ thuật và chính trị nổi tiếng trên thế giới.

Gia đình, bạn hữu, đồng nghiệp và những độc giả trung thành của ông sẽ cùng tưởng niệm một đời người đã cống hiến trọn vẹn cho văn học và nhân văn.

(Melbourne)

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Ân Tứ
Sau mấy tháng đến sinh hoạt với Hội Thánh Giám Lý Anaheim, tôi khám phá ra một điều lý thú. Ngoài những ân tứ mà tôi thường nghe các vị…
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Mê làm ca sĩ
Hỡi cố nhân ơi chuyện thần tiên xa vời Tình đã như vôi mong gì còn chung đôi Cứ cúi mặt đi để nghe đời lầm lỡ Đừng níu thời…
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: