Trong bài “Từ Một Tấm Ảnh Cũ Nhớ Về Thầy Đông Hồ” chúng tôi có viết: “Nói đến Đông Hồ, người ta nghĩ ngay tới nhà thơ, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học. Nói đến Đông Hồ, người ta nghĩ ngay tới “một người có công với Quốc Văn” (Nam Phong Tạp chí số 173), đã “tự nguyện làm một người tri kỷ với Quốc Văn, (…) cùng với Quốc Văn ước nguyền sông núi.” (Trọng Toàn, Nam Phong số 175).
Có người còn cho rằng Đông Hồ là một trong những tiền bối có công đầu khai phá cho bộ môn Thư pháp chữ Quốc Ngữ (…)” và ghi chú: “Tăng Hưng – nhiếp ảnh gia, học trò ruột và được đích thân thầy Đông Hồ chỉ dạy cho cách viết thư pháp Việt”(1). Nghệ thuật Thư Ảnh hiểu nôm na là nghệ thuật kết hợp giữa nhiếp ảnh, thi ca và viết thư pháp để tạo thành một tác phẩm nghệ thuật. Đó là sự kết hợp hài hòa nhằm tạo nên một thể loại mới mang tính nghệ thuật cao hơn. Thư Ảnh khác biệt đôi chút với Thư Họa. Theo Wikipedia “Thư Họa là sự kết hợp của thư pháp và hội họa cổ của vùng văn hóa Đông Á.”
Để ý sẽ thấy Thư-Họa viết bằng chữ Hán, còn Thư Ảnh viết bằng chữ Quốc ngữ.
Như đã dẫn, Đông Hồ là ông tổ của nghệ thuật “viết thư pháp Việt” và Tăng Hưng là truyền nhân của thầy Đông Hồ. Nhưng “đệ tử chân truyền” Tăng Hưng chẳng những viết thư pháp Việt với “tay Tiên nắn nót chữ Thần” như thầy mình, mà còn kết hợp một cách sáng tạo giữa nhiếp ảnh, thi ca và viết thư pháp để tạo thành một tác phẩm nghệ thuật: Nghệ thuật Thư Ảnh.
Tưởng cũng nên biết, Tăng Hưng sanh năm 1934 tại Bà Rịa-Vũng Tàu. Trong thời gian theo học tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn (1964-1968), chính thầy đồ Đông Hồ đã truyền cảm hứng cho đệ tử ruột Tăng Hưng niềm đam mê “múa chữ” bằng bút lông, mực tàu.
Sau khi tốt nghiệp cử nhân Văn Chương Việt-Hán, ông trở thành thầy giáo dạy môn Văn ở các trường bán công Thủ Đức, tư thục Bác Ái Sài Gòn… Về nhiếp ảnh thì Tăng Hưng cũng tự học, tự làm buồng tối.
Ông đã nếm được vị ngọt của thành quả về nhiếp ảnh tại Việt Nam cũng như quốc tế. Đó là Giải ACCU Nhật Bổn 1994: Tác phẩm “Thực hành sửa xe gắn máy”; Giải quốc tế RIGA (Liên Xô cũ 1989): Nhóm bốn bức ảnh “Con người và biển cả”; Giải Nhứt ảnh chân dung 1999: “Chăm chỉ”; Huy tượng Hội Nhiếp ảnh TP.HCM 1993: “Đón mừng”…
Tôi vô cùng ngưỡng mộ một bạn đồng môn lại cùng là môn sinh của thầy Đông Hồ tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Ngoài đời anh Tăng Hưng là một người hiền lành dễ mến, dễ gần gũi, nụ cười hoà ái luôn nở trên môi khi giao tiếp. Mặc dầu tuổi đời quá cửu tuần, người cựu giáo chức dạy Quốc Văn với vóc dáng thon nhỏ, chiều cao khiêm tốn nhưng vẫn năng nổ, tích cực phục vụ cộng đồng. Trong các sinh hoạt của Hội Giáo chức Québec, anh miệt mài ghi lại những tấm ảnh đẹp và có ý nghĩa.

Tôi nhớ có lần đã viết: “Những thước phim và hình ảnh sống động được thực hiện bởi nhà nhiếp ảnh mẫn cán Tăng Hưng – một thành viên tích cực Hội, một nhà thư pháp có tầm cỡ.”
Với tinh thần phục vụ vô vị lợi, anh đã thực hiện các cuộc triển lãm Thư Ảnh “bỏ túi” trong các kỳ Đại Hội Giáo Chức Québec và tặng một số quà Thư Ảnh cho các thành viên tích cực của hội (tôi may mắn có trong số đó).
Hãy nghe anh giãi bày về kinh nghiệm và khó khăn gặp phải: “Ảnh chụp và thi ca, không có thứ nào trội bật hơn thứ nào, chúng “hòa điệu sống” để thoát ra khỏi chính mình và tạo nên một tác phẩm mới (…) Có hai trường hợp: Hình chụp được rồi đi tìm thơ, nghĩa là khi chụp được một số hình ảnh đẹp đắc ý thì sau đó phải cố lục lọi tìm thơ thích hợp để đưa vào. (Chụp hoa súng có chuồn chuồn đậu, tìm mãi mới được câu ca dao miền Nam tương ứng. Chụp cảnh Sông Hương Núi Ngự có con thuyền, nghĩ mấy tháng mới đưa được câu thơ của Hàn Mặc Tử vô. Ngược lại, thấy câu thơ bài thơ hay ho của ai đó, mình đắc ý thì phải cố gắng săn tìm, chụp thật nhiều ảnh, chọn lựa đến khi vừa ý mới đưa thơ vào (số 13, Áo Trắng Bay, …” (Nguyễn Văn Sâm).
Chưa hết, nghệ nhân Tăng Hưng còn được người đời biết đến qua các cuộc triển lãm Thư Ảnh từ trong nước tới hải ngoại. Trong nước, cuộc triển lãm Thư Ảnh của anh được trưng bày tại Hội Nhiếp ảnh TPHCM từ ngày 5 đến 15/11/2006. Triển lãm này đã “trưng bày 55 bức ảnh chụp các thể loại: hoa cỏ, tĩnh vật, phong cảnh thiên nhiên và chân dung con người… hòa quyện cùng những câu thơ được viết trong bức ảnh, nên có tên là Thư Ảnh.” (theo báo SGGP).
Đáng chú ý nhứt là cuộc triển lãm với gần 40 bức Thư Ảnh được trưng bày tại Viện Việt Học California, Hoa Kỳ vào ngày 6 Tháng Năm, 2017. Đã có nhiều bài tường thuật khá đầy đủ về cuộc triển lãm này. Nguyễn Văn Sâm trong bài “Bóng Đông Hồ Trong Nghệ Thuật Thư Ảnh” đã nhận định sắc sảo, so sánh thư pháp Đông Hồ và Thư Ảnh Tăng Hưng: “Nhìn chữ viết, tôi nhớ tới những bức thư pháp tiếng Việt của Thi Sĩ Đông Hồ treo ở quán sách Yiễm Yiễm Thư Trang trên đường Kitchener đầu thập niên 50 (…) Tôi gọi đó là thư pháp Đông Hồ. Loại chữ viết ngó vô là biết nét chữ Đông Hồ, cao ốm thon thon của nét xuống chữ g, chữ y, của nét lên chữ h, chữ l. Để cho nét thư pháp của mình đặc biệt hơn, Đông Hồ cho những nét cong của chữ n, d, đ được kéo xuống nhiều, và ngòi bút lông được điều khiển sao chữ đều đặn mà như bay nhảy. Phân tích sự yêu chuộng trong nét thư pháp Việt, chắc ai cũng đưa ra đặc tính thanh thoát, dễ đọc, không cầu kỳ để người xem phải bóp trán giải bài toán khó” (Nguồn đã dẫn).
Ngoài ra, Nguyễn Huy (báo Người Việt), với bài tường thuật khá chi tiết về “một bộ môn nghệ thuật tương đối còn mới, có thể được coi như xuất hiện lần đầu trong sinh hoạt nghệ thuật tại Nam California.” Đặc biệt câu hỏi/đáp rất hay, rất bổ ích giữa Nguyễn Huy/Tăng Hưng nhằm gãi đúng chỗ ngứa cho những ai muốn tìm hiểu về nghệ thuật thư-ảnh.

Hãy đọc phần trả lời của Tăng Hưng: “Khi tôi chụp được một bức ảnh ưng ý, tôi bắt đầu “lùng sục” trong trí những lời thơ mà mình tâm đắc đã đọc và nhớ được từ những tác giả kim cổ. Khi kiếm được rồi sẽ trân trọng phóng bút viết trên ảnh chỉ một vài câu thơ ngắn gọn, trọn ý. Nếu trí nhớ không giúp được cho sự ưng ý của mình thì lại tra cứu sách vở cho đến khi tìm được (…). Nhưng đến phần viết lời thơ trên ảnh cũng lại là sự sáng tạo nữa. Phần thư trên ảnh sẽ chiếm bao nhiêu chỗ để bức ảnh không bị ảnh hưởng mà trái lại còn như tô vẽ thêm cho bức ảnh. Nếu chỉ phóng bút trên một tờ giấy hoa tiên như các nghệ nhân thư họa ở trong nước mỗi độ Xuân về đi bán chữ trên những vỉa hè các thành phố lớn, thì kể như dễ dàng. Ở đây phải là nghệ thuật. Nghệ thuật không chỉ trên sư bay bướm phổ vào từng chữ mà phải là “ý tại ngôn ngoại” theo các cách viết nữa…”
Nhớ lại vào dịp Tết năm Nhâm Dần 2022, nhà thư pháp Tăng Hưng có tặng tôi một bức ảnh chụp những đóa mai vàng nở rộ tô điểm bởi hai câu thơ thư pháp với nét chữ như phượng múa rồng bay:
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Thật ra đây là hai câu chót của bài kệ 6 câu không có đầu đề trích trong Thiền Uyển Tập Anh của thiền sư Mãn Giác (1052-1096). Trong số nhiều bản dịch, có lẽ bản dịch của Ngô Tất Tố được nhiều người biết đến:
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước một nhành mai.
Tôi mê mẩn ngắm nghía bức Thư Ảnh đẹp lung linh với lời đề tặng “Thân tặng Anh Chị Kiến Thiết” coi như kỷ niệm đẹp không thể nào quên. Tôi treo bức Thư Ảnh ấy tại phòng khách nơi trang trọng và bắt mắt nhứt giống như tấm ảnh “Hoa Phong Lan” của Nhiếp ảnh gia Lê Quang Xuân.

Có lần tôi đã cảm tác sau khi xem ảnh và Thư Ảnh của hai nghệ sĩ họ Lê và họ Tăng:
Tay Tiên nắn nót chữ Thần,
Đích danh thủ pháp Tăng Hưng – Hội nhà!
Nhiếp ảnh gia – thư pháp gia
Song gia hợp bích (2), giao hòa ý-thơ..
Trúc Lan.
Trong bài thuyết trình “Thú Chơi Câu Đối” tại Đại Hội Giáo Chức Québec năm 2017, chúng tôi có nhấn mạnh một đặc điểm: Câu đối của ta mượn “xác Trung Hoa” nhưng vẫn giữ cái “hồn Việt Nam.”
Cái “hồn Việt Nam” đã thoát khỏi cái “xác Trung Hoa” thể hiện ở câu đối trên ba phương diện: chữ viết, cách đọc và cách phân loại. Về cách đọc: câu đối chữ Hán hoặc chữ Nôm khi dán (treo) hoặc khắc trên cột, bắt buộc phải đọc ngược từ phải sang trái, theo cách đọc của người Tàu. Còn câu đối chữ Quốc Ngữ phải đọc thuận từ trái sang phải, theo cách đọc của ta.
Hai câu thơ của thiền sư Mãn Giác là một đôi câu đối hoàn chỉnh. Như vậy đọc theo âm Hán thì phải viết/đọc ngược từ phải sang trái, từ trên xuống dưới. Nghệ nhân họ Tăng khi đề thư pháp Việt đã “theo đúng sách vở” chữ Hán, nhưng khi phiên âm từ Hán sang Việt (thành thư pháp Việt) đã vô tình dẫn dắt người đọc phải đọc vế dưới/vế 2 (Đình tiền tạc dạ nhất chi mai) trước cả vế trên/vế 1 (Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận) mà không đọc thuận từ trái sang phải, từ trên xuống dưới.
***
Cám ơn bạn hiền Tăng Hưng đã tặng bức Thư Ảnh nghệ thuật nhân ngày Xuân muộn. Cám ơn các bạn Nguyễn Văn Sâm và Nguyễn Huy với những bài tường thuật, nhận định sắc sảo về các cuộc triển lãm Thư Ảnh. Thư pháp gia Tăng Hưng đích thực là cái “bóng Đông Hồ trong nghệ thuật Thư Ảnh.” Cái bóng nầy quá lớn khiến Nguyễn Văn Sâm muốn làm “cái bóng” của Đông Hồ (mặc dầu anh không có cơ duyên theo học với Thầy, nhưng đã từng giảng dạy về Văn chương miền Nam như Thầy).
Tôi cũng dựa hơi, muốn làm “cái bóng của Đông Hồ” bởi lẽ hội đủ các yếu tố để “núp bóng” thầy Đông Hồ: học chứng chỉ Văn Chương Quốc Âm với Thầy; làm thơ đủ thể loại; giảng dạy và nghiên cứu về Văn học miền Nam (bác học và bình dân)… nhứt là có duyên nợ với thầy mình qua việc cho/nhận ảnh để gợi nhớ đến kỷ niệm xưa trong bài viết “Từ Một Tấm ảnh Cũ Nhớ Về Thầy Đông Hồ”.
(Montréal, 2025)
Chú thích:
(1) Nguyễn Kiến Thiết: Những Trang Văn Đời Tôi, nxb Văn Học Mới Hoa Kỳ 2021, tr.74-88.
(2) Hợp bích: có nghĩa phối hợp tinh hoa hai thứ khác nhau, đem hai bên đối chiếu.