Thiệt giả giả thiệt (III)

Sáng bữa sau, ông Phán Thêm thức dậy sửa soạn đốt đèn nấu nước đặng chế vô bình trà mà uống.

Từ ngày vợ con ông mất rồi thì ông mua một cái đèn nấu nước, một bộ chén nhỏ, với một cái bình nhỏ, để sớm mai hay là trưa, ông uống nước trà, thì ông bổn thân nấu lấy mà uống, chớ ông không chịu sai chú Sen.

Nước sôi, ông đưng chế vô bình, thì cô Phùng Xuân bước vô cửa, chấp tay cúi đầu xá ông và nói rằng: “Thưa ông, cháu là thợ may ở dưới tiệm Vĩnh Hưng. Bà Tư chủ tiệm sai cháu lên đặng sửa áo sửa quần cho ông.”

Ông Phán gặc đầu nói rằng: “Phải, hôm qua bà Tư có nói. Cô ngồi trên ván đó chơi, đợi tôi uống nước rồi tôi sẽ soạn đồ trong tủ ra cho cô sửa.”

Cô Phùng Xuân lại ngồi ghé góc ván phía trong vách.

Ông Phán ngồi uống ít chén nước rồi hỏi cô rằng:

-Cô có đem kim chỉ theo đặng ở đây mà sửa, hay là cô tính lấy đồ đem về dưới tiệm mà làm?

-Thưa, bà Tư dặn cháu lên trên này mà sửa chớ đừng có lấy đồ đem về tiệm. Bà nói ở đây sửa đặng hễ cái nào rồi ông bận thử liền cái nấy coi như chưa vừa thì sửa lại nữa, chớ đem về tiệm rồi nhắm chừng mà sửa, sợ e không vừa.

-Bà Tư tính như vậy cũng được. Cô có đem kim chỉ theo hay không?

-Thưa, có. Cháu có đem đủ thứ chỉ.

-Áo quần của tôi bây giờ rộng rinh hết thảy. Chắc là phải sửa mấy bữa mới rồi. Ông ngước mặt ngó cô rồi hỏi tiếp rằng:

-Cô may tiệm bà Tư được bao lâu rồi?

-Thưa cháu lại may được vài tuần nay.

Ông Phán nghe mấy lời thì ông ngó cô trân trân rồi hỏi rằng:

-Té ra cô là người thợ may mới mà bà Tư nói hôm qua đó phải hôn?

-Thưa bà Tư nói sao?

-Bà nói cô là con của một ông Cai Tổng hồi trước phải vậy hay không’?

Cô Phùng Xuân thẹn, nên cúi mặt xuống mà đáp nhỏ nhỏ: “Thưa, phải.”

Ông Phán châu mày rồi đi mở tủ lấy hết áo vắn áo dài đem ra bỏ một đống trên ván. Ông bận thử vài cái cho cô Phùng Xuân coi rộng bâu, rộng tay chỗ nào bao nhiêu, rồi ông nói rằng: “Ðó, cô em sửa lần đi. Sửa xong mấy cái đó, rồi tôi bận thử, hễ vừa thì lấy mực mà sửa luôn các áo kia. Cô ngồi bộ ván đó mà may. Chỗ đó có cửa sổ sáng sủa dễ may.”

Ông nói rồi bỏ đi ra trước sân mà sửa kiểng.

Cô Phùng Xuân ngồi chăm chỉ lo làm việc bổn phận, cô không dòm ngó ai hết, mà cũng lặng thinh không nói tiếng chi. Một lát cô nghe ông Phán ở ngoài sân nói lớn rằng: “Chị Mười có nấu cơm thì nấu thêm gạo một chút đặng cô thợ may ăn với, nghe hôn.” Cô lại nghe có tiếng dạ rồi thấy một người đàn bà đi ngang qua cửa sổ, tay có bưng một rổ đồ ăn, cô định chừng người ấy là người ở nấu ăn cho ông Phán.

Trưa nắng ông Phán vô nhà, ông thấy cô chăm chỉ quá thì ông cười mà nói rằng:

-Cô em có khát nước thì đi thẳng ra sau mà uống. Có chị Mười nấu ăn ở sau.

-Thưa, cháu không khát.

-Thủng thẳng rồi sửa, bữa nào rồi cũng được, không cần phải sửa lật đật. Ngồi lâu có mỏi thì ra phía sau nói chuyện chơi với chị Mười mà nghỉ một chút.

-Thưa mới may có một chút, có chi đâu mà mệt.

-Nhà tuy không có đàn bà, mà cô em đừng ngại chi hết. Cô đáng em đáng cháu mà ngại gì.

Ông nằm trên ghế xích đu, đưa lúc lắc một hồi rồi hỏi rằng:

-Cô em gốc gác ở đâu?

-Dạ cháu sinh đẻ tại Cái Côn.

-Ủa! Cái Côn, mà thuộc bên Sóc Trăng hay bên Cần Thơ.

-Thưa bên Sóc Trăng.

-Té ra cũng ở gần tôi mà. Tôi gốc ở Ngã Bảy. Cô em là con thầy Cai Tổng nào đó?

-Thưa cháu là con của Cai Tổng Hùng.

– Ờ, ờ  tôi có nghe danh thầy. Thầy mất đã bao lâu nay?

-Thưa mới mãn tang vài tháng nay.

-Nhỏ lớn tôi mắc đi làm việc nên không có gặp thầy lần nào. Tuy không quen, chớ tôi có nghe thầy hồi trước là người tử tế mà lại hảo hớn lắm. Ðời này thì vậy đó: phải hung bạo, phải bợ đở thì mới khá được, chớ còn làm nhơn nghĩa, giữ chánh trực thì mang hại. Thầy Cai mất rồi bây giờ bà Cai ở với ai?

-Thưa ở với anh cháu dưới Kế Sách.

-Cô em được mấy anh em?

-Thưa cháu có một người anh với một người chị đều có vợ chồng rồi hết.

-Cô em may cho bà Tư một tháng bà trả tiền công bao nhiêu?

-Thưa, bà nói bà cho cháu 7 đồng. Như ít tháng bà coi cháu may khá thì bà sẽ cho thêm.

-Bảy đồng bạc mà ăn sao đủ!

-Thưa cháu ăn ở luôn trong tiệm, nên khỏi tốn hao chi hết.

-Chớ có 7 đồng bạc mà còn phải mướn phố mà ở, nấu cơm mà ăn, thì chết còn gì!

-Thưa, cháu mới may mà được tiền công như vậy cũng khá, chớ có người lãnh bốn năm đồng.

Ông Phán nghe như vậy thì ông gãi đầu nhăn mặt, bộ buồn hiu.

Chị Mười nấu cơm dọn rồi, chị bước ra mời ông Phán đi ăn. Ông Phán biểu cô Phùng Xuân nghỉ may đặng đi ăn cơm. Cô cáo từ, xin để về tiệm mà ăn. Ông không cho, ông nói rằng về tiệm xa lắm, đi nắng mệt lại mất ngày giờ, ở ăn cơm, nghỉ tới 2 giờ sẽ may nữa, rồi chiều sẽ về tiệm. Cô lấy làm ái ngại, mà bị ông mời ép quá, túng thế cô nói rằng: “Ông thương ông cho cháu ăn cơm thôi để lát nữa rồi cháu sẽ ăn với chị Mười.” Ông lắc đầu đáp rằng: “Không được. Tôi mời cô em ăn cơm, có lẽ nào tôi để cho cô em ăn với bạn bè vậy sao.”

Cô Phùng Xuân bối rối quá, không biết dùng chước nào mà từ, nên đứng dụ dự hoài.

Ông Phán nói rằng:

-Tưởng là ai xa lạ kìa, chớ cô là em cháu mà ngại nỗi gì. Tôi biểu thì phải nghe lời.

-Thưa phận cháu hèn hạ, mà ngồi đồng bàn với ông vậy cháu lỗi lắm, cháu đâu dám.

-Sao mà hèn hạ. Cô không tiền cô làm thợ may. Người ta có tiền mua áo mà người ta không biết may, người ta đem mướn cô may. Cô ra công mà may thì có ăn tiền, người ta muốn có áo bận thì phải trả tiền, hai đàng cũng vậy, có ai sang hay là hèn hơn ai đâu.

Cô Phùng Xuân không biết lấy chi mà cãi.

Ông Phán thấy chị Mười đi vô nhà sau, ông bèn nói thêm rằng: “Chớ chi thầy Cai còn mạnh giỏi, thì cô em còn sang trọng hơn tôi nữa, đừng có nói hèn hạ.”

Cô Phùng Xuân bị ép quá, không thể từ chối được cực chẳng đã phải đi ăn cơm với ông Phán. Cô kính ông, nên phải ngồi dưới ông một bực, mà ăn thì cô rón rén không dám gắp đồ ăn. Còn ông thì ông nói việc này, hỏi việc nọ không dứt, coi bộ như ông vui mà có một người khách ăn cơm với ông. Ông ăn coi ngon lắm, còn cô thủng thẳng ăn hết một chén cơm rồi cô cáo từ đi uống nước.

Ăn cơm rồi ông nghỉ trưa. Ông biểu cô nghỉ, mà cô lại ráp may nữa, sửa tới chiều rồi được 3 cái áo. Ông bận thử thì vừa vặn, khỏi phải chữa sửa lại nữa. Ðúng 5 giờ chiều cô xin phép ông đặng về tiệm mà nghỉ, rồi sáng mai sẽ lên sửa nữa.

Mấy bữa sau cô Phùng Xuân cũng làm y như bữa đầu, 7 giờ sớm mai thì lên tới, trưa ăn cơm với ông Phán, rồi chiều đúng 5 giờ thì về tiệm.

Sửa áo tới 3 ngày mà cũng chưa rồi. Một bữa trưa, đương ngồi ăn cơm, ông Phán nói với cô Phùng Xuân rằng: “Hổm nay có cô em ăn cơm, nói chuyện cho vui nên tôi ăn ngon quá. Ngồi ăn có một mình buồn xo ăn không được. Ðể chiều tôi biểu chị Mười nấu cơm sớm một chút đặng cô em ăn rồi sẽ về. Cô em chịu phiền ăn giùm với tôi, đặng vui miệng tôi ăn mới được.”

Cô Phùng Xuân đã ăn bữa trưa rồi, không lẽ từ bữa chiều, nên phải vưng lời.

Sửa áo tới 7 bữa mới xong. Mà sửa áo xong rồi, ông lại bắt cô vá nệm, vá drap, vá mùng nữa. Chừng trong nhà chẳng còn vật chi sửa hay là vá nữa, ông mới đưa tiền biểu cô ra nhà hàng mua vải, mua ren đặng may màn treo cửa buồng và mấy cửa sổ.

Cô ngồi may thì ông ít hay nói chuyện với cô, song mỗi ngày hễ trưa thì ông hay nằm cái ghế xích đu bên căn giữa, ông ngó cô có khi tới một hai giờ đồng hồ mà không nói một tiếng chi hết.

Một bữa trưa, ông đương nằm ngó cô, trong nhà lặng trang, thình lình ông hỏi cô rằng: “Cô em bây giờ thân phận côi cút, gia đạo suy vi, sao không lấy chồng mà nương dựa cho đỡ tấm thân, để đi may mướn làm chi cho cực khổ?”

Cô Phùng Xuân ngước mắt ngó ông rồi châu lnày đáp rằng: “Thưa phận cháu nghèo hèn, có ai thèm cưới mà tính lấy chồng.”

Ông Phán cười mà nói rằng:

-Nếu vậy hễ nghèo thì không thể nào có chồng hay sao? Có lẽ tại cô em không muốn lấy chồng chớ.”

-Thưa phải. Cũng tại cháu không muốn lấy chồng.

Ông Phán nghe trả lời như vậy thì ông ngồi dậy đốt một điếu thuốc mà hút, bộ ông suy nghĩ lắm. Ông ngồi im lìm mà ngó ra sân, ông thấy một cặp chim sắc đưng nhảy trước thềm, tiếng kêu chét chét; con trống nhảy chỗ nào thì con mái nhảy theo chỗ nấy, hai con không rời nhau xa, chừng con kia bay đi thì con nọ cũng bay theo liền. Ông nhìn cặp chim rồi trong lòng sanh cảm, nên chậm rãi, nói rằng: “Phận cô em còn trẻ, vừa mới bước chân vào đường đời, chưa thấy những nỗi khổ bao nhiêu, mà sao cô em nói nghe hơi như chán ngán dữ vậy! Nếu cô em ở trong cái cảnh của tôi đây thì cô em mới não nề đến thế nào nữa!”

Ông nói mấy lời thường, mà giọng nghe buồn thảm lắm. Ông nín một lát rồi nỗi thảm của ông tràn trề trong lòng, không thể dằn được, nên ông nói tiếp rằng: “Cô em nói rằng cô em không muốn lấy chồng. Theo người thường họ chê mùi trần, họ nghe câu ấy, họ đều cho cô em nói quấy. Chớ theo tôi thì tôi cho cô em nói phải lắm. Làm con người còn lục đục trong cái vòng khổ não, là cái vòng ‘sanh lão bịnh tử’ nầy, nếu sanh ra thì cứ tranh đua danh lợi, mê mẩn vợ chồng cho đến ngày chết, rồi đầu thai lên kiếp khác cũng tranh danh lợi, mê vợ chồng nữa, làm như vậy hoài, thì biết chừng nào mới qua khỏi biển khổ. Huống chi kết vợ chồng mà chắc gì được hạnh phúc hay sao. Mình làm thân con gái, khi người ta muốn cưới mình, thì họ nói ngon nói ngọt, họ hẹn biển thề non, mà nhiều khi về ở với nhau rồi những lời ngon ngọt thành ra những tiếng đắng cay, những câu thề nguyền đều trôi theo dòng nước hết, rồi cái đời của mình tuy ở chốn trần gian, song chẳng khác nào như nằm trong địa ngục. Nếu may mà gặp được chồng hiền, sanh đưọc con thảo, gia đình đầm ấm, hôm sớm vui vầy, rồi thình lình gãy gánh can thường, chồng con ly biệt, thì sự thương tiếc nó còn làm cho mình phải khổ não khó chịu hơn nữa. Một cái gương của tôi đây cũng đủ làm cho người ta phải ngao ngán về nỗi vợ chồng.”

Ông nói tới đó rồi ông nín, thò tay vào túi lấy khăn ra chậm nước mắt.

Cô Phùng Xuân uất về nỗi vợ chồng, nên nghe ông nói tới việc vợ chồng thì cô buồn hiu. Chừng cô thấy ông nhớ tới vợ con mà ông đau đớn, thì cô cảm xúc trong lòng, nên quên việc của mình mà tội nghiệp giùm cho ông.

Ông ngồi lặng thinh một hồi rồi ông chậm rãi nói nữa rằng: “Hổm nay cô em lên đây ở may, có lẽ cô em đã thấy rõ gia đạo của tôi rồi. Ðó cũng vì vợ con mà tuổi đã lớn, trong nhà có đủ ăn, song tôi còn phải chịu buồn thảm như vầy, buồn thảm đến nỗi ốm o gầy mòn, đến nỗi những việc thiên hạ đồng cho là vui mà tôi không biết vui chi hết. Tôi nghĩ thiệt tôi phiền tạo hoá quá. Bày cho có cuộc gia đình làm chi, mà loài người phải đau đớn khốn khổ hết sức! Nếu tạo hoá bày một cách nào khác cho loài người sanh sản, chớ đừng có vợ chồng, đừng có cha con, thì cái khổ của chúng ta ắt giảm được phân nửa, chúng ta trả nợ trần mà giải thoát dễ biết chừng nào. Cô em nghĩ thử coi những lời tôi nói đó phải hay là quấy.”

Cô Phùng Xuân ngừng may mà đáp rằng: “Thưa, những lời ông nói đó đều phải hết thảy. Ở đời cha con cũng là tình nghĩa, vợ chồng cũng là tình nghĩa, anh em cũng là tình nghĩa. Nhưng mà trong ba thứ tình ấy duy có tình nghĩa vợ chồng dồi dào hơn hết, nhiều khi nó làm cho người ta não nề thất chí đến nỗi coi chết như chơi. Ông trách tạo hoá bày vợ chồng, cháu nghĩ phải lắm chớ.”

Ông Phán cười gằn mà nói rằng: “Cô em thấy việc của thiên hạ, chớ cô em chưa nếm mùi vợ chồng, mà cô em còn biết như vậy đó. Chừng cô em lập gia đình xong rồi thì mới thấy nhiễu hơn nữa.”

Ông nói tình cờ, chớ ông không rõ tâm sự của cô, nhưng mà những lời ơ hờ ấy như bươi móc khêu gợi lòng cô, cô không thể dằn được, nên cô thở dài mà nói nhỏ nhỏ rằng: “Thưa, cháu cũng có nếm mùi chút đỉnh rồi, nên cháu mới biết vợ chồng là khổ, chớ có phải cháu thấy việc của thiên hạ mà thôi đâu.”

Ông Phán chưng hửng bèn hỏi rằng: “Té ra cô em có chồng rồi hay sao?”

Ðã bước tới lỡ rồi, không thể sụt lại được, nên cô chảy nước mắt mà đáp rằng:

-Thưa, thiệt cháu chưa có chồng, mà cũng như có một đời chồng rồi.

-Ủa, sao vậy?

-Thưa, hồi cháu mới được 16 tuổi thì cha mẹ cháu có hứa gả cho một người trai nghèo mà học giỏi, định hễ học thành tài rồi thì cho vầy duyên. Trong mấy năm người ấy đi học thì cha mẹ cháu thường phụ cấp tiền bạc áo quần. Lúc bãi trường người ấy về thì thường tới lui thăm viếng có khi ở chơi năm mười bữa. Chừng người ấy học hoàn toàn rồi thì nhà cháu suy sụp, cha cháu chết, gia tài bị chủ nợ tịch hết, người ấy làm lơ, đi kiếm chỗ giàu sang mà cưới vợ.

Ông Phán trợn mắt ngó cô Phùng Xuân mà nói ràng: “Người gì mà đê tiện dữ vậy!”

Cô nín khe, lấy khăn lau nước mắt. Ông hỏi rằng: “Người đó là ai, bây giờ làm việc ở đâu?”

Cô dụ dự một lát rồi nói nho nhỏ rằng:

-Thưa làm thầy thuốc, nghe nói ở đâu trong Chợ Lớn.

-Tên gì vậy?

-Thưa, tên Cộn.

-Cưới vợ là con của ai ở đâu vậy?

-Thưa, cưới con gái của ông Huyện Hàm Cử ở dưới Bắc Liêu.

-Tội nghiệp cho ông Huyện đó, vô phước quá, nên mới mang chú rể như vậy?… Hứ! nhân tình bạc bẽo hết sức? Mê giàu sang chớ không kể nhơn nghĩa gì!… Hèn chi hồi nãy tôi hỏi sao cô em không tính lấy chồng, thì cô em nói mình nghèo có ai lại thèm cưới mà mong lấy chồng. Cô em buồn, cô em oán cũng phải. Ðó thấy chưa? Mới hứa hôn, chớ chưa thành gia thất mà đã khổ não rồi đó!

-Thưa cháu nghĩ đó chắc là tại cái mạng của cháu nên cháu buồn phận cháu mà thôi, chớ cháu không oán ai.

-Ðến nước đó mà cô em cũng không oán? Nếu vậy thì cô em đã có cốt tu rồi, hoặc là còn thương người đó nhiều lắm.

Cô Phùng Xuân lặng thinh, chăm chỉ mà may, không trả lời nữa. Chú Sen ở sau bước ra mời ông Phán đi tắm làm cho câu chuyện tới đó rồi dứt.

Cô Phùng Xuân may vá cho ông Phán Thêm đến 15 bữa mới tất công việc. Cô từ giã ông mà trở về tiệm.

Tối bữa ấy ông Phán đi chợ mua một cây lụa trắng đem về, rồi sáng bữa sau ông viết một bức thơ sai chú Sen cầm đem cho bà Tư Kiến với cây lụa và 20 đồng bạc, mà cậy bà Tư đền bồi công khó nhọc cho cô Phùng Xuân.

Trót ba năm ông Phán Thêm, ôm sầu ấp thảm sớm tối hiu quạnh một mình, ít giao thiệp với ai, nên không có dịp thổ lộ tâm sự đặng hà hơi mà khuây lòng chút đỉnh.

Trong 15 bữa rày, nhờ có cô Phùng Xuân ở trong nhà may vá, ăn cơm có người làm vui miệng ăn ngon, nằm buồn có người luận việc đời tiêu khiển, nhứt là nhờ có dịp ấy làm cho ông thấy ông buồn rầu mà có người khác cũng buồn rầu như ông vậy, tuy hai cái buồn không giống nhau, song cũng buồn về nỗi gia đình, thì cái không khí trong nhà ông coi ra dường như có mòi vui vẻ hơn trước.

Mà trót nửa tháng, mỗi bữa đều thấy mặt cô Phùng Xuân, đều nghe tiếng cô nói, đều có cô ngồi ăn cơm làm cho con mắt quen thấy, lỗ tai quen nghe, trong trí quen nhớ, rồi bây giờ bộ ván chỗ cô ngồi trống trơn, vắng bặt tiếng cô nới chuyện, nằm ghế xích đu không thấy hình dạng cô nữa, thì ông Phán vào ra trong lòng buồn bực lại trong trí bàng hoàng hoài.

Tại sao ông buồn bực bàng hoàng? Ông biết tại vắng mặt cô Phùng Xuân.

Mà tại sao vắng mặt cô Phùng  Xuân thì ông lại buồn bực bàng hoàng như vậy? Câu hỏi ấy ông vừa nghĩ tới thì ông giựt mình, ông không dám trả lời. Ông nhứt định quên cô, ngặt vì trong trí quên không được, vởn vơ thấy hình dạng cô trước mắt, văng vẳng nghe tiếng cô nói bên tai, nằm trong nhà cũng vậy mà ra ngoài sân cũng vậy.

Ông lấy truyện ra mà đọc, tính làm như vậy đặng khuây lảng trí. Té ra đọc truyện mà trí không có chuyện ông đọc, lại nhớ chuyện của cô Phùng Xuân nói với ông. Ông bứt rứt trong lòng quá, chịu không được nữa, nên bữa sau ăn cơm tối rồi ông ngồi xe kéo đi chợ Bến Thành mà chơi. Hồi mới ra đi thì ông tính đi chợ mà chừng ra gần tới, thì ông lại biểu xa phu chạy qua đường Espange, rồi ông ghé tiệm may Vĩnh Hưng.

Lúc ấy đã quá 7 giở tối, thợ may tốp thì về nhà, tốp thì đi chơi hết, duy có một mình cô Phùng Xuân lục đục đương sửa một cái máy may mà thôi.

Ông Phán Thêm bước vô thấy cô ngồi dưới một cái bóng đèn khí sáng lòa, thì mặt ông tươi rói. Cô lật đật đứng dậy chấp tay chào ông.

Ông cười và hỏi rằng:

-Có bà Tư ở nhà hôn cô em?

-Dạ thưa có. Bà ở trên lầu.

-Cô em may tới ban đêm nữa sao?

-Thưa, hồi chiều có một cái máy hơi trục trặc, nên tối rảnh cháu sửa một chút. Mời ông ngồi đỡ đây đặng cháu lên lầu cho bà Tư hay.

-Lúc này đồ may nhiều hôn?

-Thưa nhiều.

-Cô em sửa đồ tôi bận coi vừa quá. Sẵn dịp đi chợ tôi ghé cám ơn cô em và cám ơn luôn bà Tư nữa.

-Thưa, cháu may có mấy bữa, công không bao nhiêu, mà hôm qua ông gởi cho bà Tư đặng đưa cho cháu tới 20 đồng bạc với một cây hàng, thiệt nhiều quá. Của ông cho, cháu không dám từ, song cháu ái ngại hết sức.

-Ối! Chút đỉnh có đáng gì đâu. Công cô may tới nửa tháng, cực nhọc quá mà.

Bà Tư Kiến ở trên lầu nghe tiếng ông Phán nói chuyện, bà đi xuống, đi mới được nửa cái thang thì bà nói lớn rằng: “Dữ ác hôn! Tôi lập tiệm mấy năm rồi, bữa nay ông Phán mới chịu ghé đa. Từ rày sắp tới chắc tiệm tôi phát tài lắm rồi.”

Ông Phán cười mà đáp rằng: “Sẵn dịp đi chợ tôi ghé cám ơn bà.”

Bà Tư hỏi:

-Cám ơn gì mà cám?

-Nhờ bà cho thợ lên sửa áo, nên tôi phải cám ơn chớ.

-Dữ hôn? Con thợ Tư nó sửa đó, vậy mà được hay không?

-Ðược lắm, được lắm. Áo quần của tôi bây giờ vừa vặn, chớ không còn rộng rinh như hôm trước nữa. Tôi bận đây, bà coi phải vừa hay không?

Bà Tư ngó ông mà cười, biểu Phùng Xuân mở đèn trong phòng khách rồi mời ông vô chơi. Ông Phán với bà Tư nói chuyện, cô Phùng Xuân lăng xăng bưng nước, lấy thuốc đãi khách. Ông Phán hỏi việc này, việc nọ, bộ ông vui vẻ, chớ không phải buồn bực như hôm bà Tư lên nhà ông đó vậy. Ông ở chơi tới 10 giờ rồi ông mới từ mà về. Bà Tư Kiến đưa ông ra cửa, bà nói rằng:

-Lúc nầy tôi coi bộ ông khá khá, chớ hôm trước ông ốm quá, thấy phát sợ.

-Tôi bớt ốm hay sao?

-Bớt bộn.

-Mười mấy bữa rày tôi ăn cơm được. Có lẽ nhờ vậy nên tôi mới bớt ốm.

-Mà bộ ông lúc này coi cũng vui nữa.

-Ạ! Cái đó không chắc bởi vì tôi tưởng không thể nào tôi vui được.

-Từ hồi hôm tới giờ ông nới chuyện nghe vui vẻ quá chớ.

-Tới thăm bà tôi phải làm vui chớ lẽ nào tôi dám nói chuyện buồn.

-Vậy thì ông nên đi chơi hoài cho vui. Có buồn ra đây nới chuyện chơi.

-Mấy năm nay ở nhà hoài, quen thói, nên bây giờ tôi ít muốn đi đâu.

Ông Phán lên xe mà về. Bà Tư trở vô nói với cô Phùng Xuân rằng: “Tội nghiệp ông Phán, vợ con chết hết, mấy năm nay ổng thất chí ổng buồn rầu quá!”

Trong mấy giờ đồng hồ ông Phán ngồi tại tiệm Vĩnh Hưng thì ông vui thiệt, chớ không phải tại thủ lễ nên làm bộ vui, chừng về tới nhà thì sự buồn bực của ông chẳng những trở lại, mà còn làm cho ông khó chịu hơn trước nữa. Ông không muốn nhớ tới cô Phùng Xuân, ngặt không muốn không được, mà hễ nhớ tới cô thì lòng ông bát ngát rồi ông giựt mình. Ðêm ấy ông ngủ không được. Ông chong đèn ngồi trót mấy giờ đồng hồ. Trí ông hỏi lòng ông: vậy chớ ông có muốn cô Phùng Xuân hay không?

Không lý muốn, mà cũng không nên muốn như vậy; một lẽ là tuổi ông bằng hai tuổi của cô, cô đáng con của ông, hai lẻ là ông già rồi, nếu ông có vợ nhỏ, trong ít năm ông chết, ông bỏ vợ bơ vơ, còn như sanh con lại càng tội nghiệp hơn nữa, ba lẽ ông đã có gây cuộc gia thất một lần rồi, tại số mạng của ông phải cô độc nên Trời Phật mới khiến vợ con chết hết, bây giờ còn miễn cưỡng cuộc thất gia một lần nữa mà làm chi, bốn lẽ là cô đương uất tình, đương khổ thân, chẳng khác nào người chơi vơi giữa giòng sông, nếu không thể cứu vớt giùm tánh mạng cùng danh giá của cô được thì thôi, chớ có lẽ nào lại thừa lúc cô nguy khốn mà dụ dỗ ép uổng.

Ông xét như vậy thì trúng chánh lý. Mà những chánh lý ấy không đủ sức mạnh dập tắt lửa tình đương ngún trong lòng ông được, bởi vậy ông muốn quên cô chừng nào thì lòng ông lại càng khoăn khoái chừng nấy.

Ông lấy làm khó chịu, nên ông tự hỏi ông: “Nợ vợ chồng mình trả chưa dứt hay sao, nên khiến lòng mình còn phải lăng xăng như vây?” Có lẽ tại như vậy đó.

Ông vẫn biết nếu ông nói mà cưới cô Phùng Xuân thì trái phong hoá mà cũng trái lương tâm nữa.

Nhưng nếu không thấy mặt cô thì ông chịu không được bây giờ biết làm sao? Ðã say về tình rồi thì còn kể gì là lương tâm, còn kể gì là phong hoá. Ông nhứt định phải ra tiệm Vĩnh Hưng mà tỏ thiệt cái tình của ông cho cô Phùng Xuân biết và hỏi cô nếu cô ưng thì ông cưới liền; ông cưới cô đặng gỡ mối sầu thảm của ông, mà cũng làm cho cô hưởng hạnh phúc ít năm, kẻo thân cô cơ hàn bơ vơ tội nghiệp. Chồng già vợ trẻ, ở đời cũng thường thấy hoài. Huống chi mình đã chết vợ, còn cô thì người hứa hôn thấy cô nghèo mà phụ bạc để cưới vợ khác, thế thì mình với cô kết duyên chẳng có chi phạm nghĩa mà dụ dự. Dầu vợ chồng, vì khác tuổi nên tình không được dan díu, nghĩa không được mặn nồng, mà miễn là mình có cô ở trong nhà, cô có chỗ dung thân, dường ấy gẫm cũng đủ mình bớt buồn trong mấy năm sống sót.

Ông đã quyết định như vậy, mà ra tới tiệm Vĩnh Hưng, ông thấy mặt cô Phùng Xuân, thì ái ngại quá nên mở miệng không được. Ông tính cậy bà Tư Kiến nói giùm, nên chừng ông về thì ông mời bà Tư bữa nào có rảnh xin vô nhà ông cho ông nói chuyện riêng.

Tối bữa sau bà Tư Kiến vô nhà thăm ông Phán. Có lẽ bà thấy bộ tịch của ông khác hơn xưa, bà phát nghi trong lòng, nên bà vừa ngồi thì bà cười mà hỏi rằng: “Ông mời tôi vô đặng nói chuyện riêng là chuyện gì vậy?”

Ông Phán day mặt chỗ khác mà đáp rằng:

-Chuyện riêng của tôi.

-Mà chuyện gì chớ? Phải ông muốn cậy tôi làm mai hay không?

Ông Phán rất hổ thẹn, song ông gượng cười mà hỏi rằng:

-Sao bà biết?

-Mà tôi nói đó trúng hay không kìa?

-Trúng. Mà sao bà biết trước chớ?

-Con mắt tôi giỏi lắm. Hễ ngó thoáng qua thì tôi biết liền.

-Mà bà nghĩ thữ coi được hay không? Tôi mời bà vô đây là tôi muốn hỏi bà coi theo ý bà việc đó có nên làm hay không. Như nên thì tôi xin bà ra ơn làm mai giùm. Tôi tính làm đủ lễ nghĩa chớ không phải muốn chơi qua đường. Bà nghĩ thử coi.

Bà Tư Kiến hồi nãy bà hí hởn, mà nghe ông Phán hỏi như vậy, thì nét mặt bà nghiêm nghị, bà ngồi ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi đáp rằng:

-Ông muốn kết duyên cùng con Phùng Xuân, thì có can danh phạm nghĩa chi đâu mà không nên. Nếu được như vậy thì phận ông giải bớt sầu não được, còn phận con nọ, nó được sung sướng tấm thân. Ngặt có điều nầy là nó nhỏ tuổi hơn ông nhiều quá: ví như bây giờ thân nó nghèo khổ, nó không nệ tuổi lớn nhỏ, nó ưng ông tôi sợ ông cưới nó về rồi sau ông cực lòng chớ.

-Tại sao mà bà sợ tôi cực lòng? Tánh nết cô Phùng Xuân có chỗ không tốt hay sao?

-Không. Tánh nết của nó không có chỗ nào chê được. Ông kiếm thử hết thảy con nhà giàu, con nhà quan, coi có được bao nhiêu người tánh nết bằng nó mà. Gái như nó, tuy bây giờ nghèo hèn chớ giá đáng ngàn vàng, không phải dễ kiếm đâu.

-Vậy chớ tại sao mà nếu tôi cưới cô thì tôi sẽ cực lòng?

-Ông không hiểu tại sao? Phàm con người đến tuổi nào, thì có cái vui, cái buồn, cái ưa, cái ghét, cái muốn, cái chê riêng theo tuổi nầy. Nếu ông kết vợ chồng với Phùng Xuân, ông tuổi lớn, nó tuổi nhỏ, ở một nhà mà hai người tính ý bất đồng thì làm thế nào mà ông khỏi cực lòng cho được. Ðể tôi thí dụ cho ông nghe: ông tuổi lớn tự nhiên ông ưa thanh tịnh. Còn Phùng Xuân tuổi nhỏ tự nhiên nó ưa náo nhiệt. Ông muốn nó theo ông, ông cứ bắt nó ở nhà hoài thì nó không vui: còn ông chiều theo ý nó, ông dắt nó đi chơi, thì ông buồn; ông nghĩ coi có cực lòng hay không?

Ông Phán ngồi lặng thinh mà suy nghĩ rồi ông gậc đầu nói rằng:

-Bà nói trúng lắm. Người khác tuổi tự nhiên tính ý khác nhau. Nếu tôi cưới cô Phùng Xuân, thì trong hai người phải có một người cực lòng. Tôi nói thiệt, thà là tôi chịu cực lòng, chớ tôi không nỡ để cho cô cực lòng đâu.

-Ông can đảm lớn dữ há!

-Không phải tôi có can đảm lớn, mà cũng không phải tôi nói bướng. Tôi bây giờ chẳng còn biết chi là vui nữa. Tôi nói thiệt với bà, tôi mà còn đem lòng thương cô Phùng Xuân, chắc là tại cái nợ nhân duyên của tôi ở trên cõi đời nầy chưa dứt. Vậy tôi cưới cô, là quyết trả cái nợ ấy cho xong mà thôi; tôi hứa chắc tôi sẽ làm cho cô vui lòng luôn luôn, phần cực tôi lãnh tôi gánh vác hết mà trả nợ.

Bà Tư cười ngất.

Ông Phán không có ý giễu cợt, nên thấy bà cười thì ông lấy làm lạ, ông hỏi rằng:

-Tại sao tôi nói thiệt mà bà lại cười?

-Muốn cưới vợ nhỏ thì cưới, ai cười chê gì sao, nên phải mượn cái thuyết nhơn quả của Phật mà đậy che lòng dục!

Ông Phán mắc cỡ nên ngồi lặng thinh.

Bà Tư nói tiếp rằng:

-Nói pha lửng mà cười chơi, chớ nếu ông cưới con Phùng Xuân thì hay lắm, có sao đâu mà ngại. Ông là người có tiền, tuy trộng tuổi một chút chớ chưa phải già mà ở tròi trọi một mình, không có vợ con chi hết. Còn con Phùng Xuân thì nó nghèo nàn, không nơi nương dựa, mà cũng chưa có chồng con…

-Cô gần có chồng đa bà. Cha mẹ đã hứa gả cô rồi, đợi chàng ra học xong rồi thì cho cưới. Rủi nhà cô suy sụp nên chúng bội ước mà bỏ cô đi cưới chỗ khác.

-Sao ông biết?

-Cô có nói thiệt việc ấy cho tôi nghe.

-Chồng là ai ở đâu?

-Ông thầy thuốc nào đó, bây giờ làm việc ở trong Chợ Lớn.

-Vậy mà nó giấu tôi chớ!… Nếu có vậy thì nó ưng ông càng phải hơn nữa. Nó kết duyên với ông thì nó có chỗ nưng dựa sung sướng tấm thân, còn ông thì có người săn sóc cơm nước. Nếu Trời Phật nhểu phước sanh cho ông được một chút con trai thì càng quý hơn nữa.

-Ôi! Bà bày chuyện lớn quá! Tôi không dám mơ ước cao đến thế đâu. Cầu trong mấy năm tôi còn sống sót đây tôi bớt buồn rầu và tôi làm cho cô khỏi cực khổ tấm thân được, thì cũng đủ rồi.

-Bày chuyện là sao? Ông còn có con được lắm chớ. Tuổi lớn có được một chút con, nói đỏ đẻ cho mà nghe, không vui hay sao?

Ông Phán châu mày đáp rằng: “Bây giờ lo nới thử coi cô ưng hay không đã, chớ lo chi chuyện xa đường dữ vậy!”

Bà Tư cười và bà hứa để về bà hỏi dọ ý cô Phùng Xuân coi cô nhứt định lẽ nào rỗi bà sẽ trả lời.

(còn tiếp)

(Hobieuchanh.com)

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Về U Minh
Miền Tây quê mình, nói tới U Minh với Miệt Thứ là người ta nhớ liền tới rừng tràm bạt ngàn, nước đen hun hút, với con đường do tiền…
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: