Tiến Sĩ Nguyễn Kim Quý (Kim Thanh, Người Lính Già Oregon) qua đời vào Thứ Tư, ngày 12 Tháng Hai năm 2025 tại thành phố Portland, Oregon.
Theo Mục Sư Huỳnh Quốc Bình, bà Nguyễn Kim Quý cho biết, lúc sinh tiền đã dặn dò vợ con khi lìa trần, tang lễ của ông phải hết sức đơn giản. Trong tang lễ không có điếu văn, không phủ cờ và không vòng hoa gì cả. Vợ con chỉ cần đưa xác đến nhà quàn để hỏa thiêu, sau đó báo cho anh chị em của anh và vài bạn hữu của anh biết mà thôi vì không muốn làm phiền bất cứ một ai khác trong tang lễ…

Với bốn thập niên cư ngụ tại Oregon như quê hương thứ hai nên Thánh Lễ an táng ngày 18 Tháng Hai được tổ chức long trọng với Giáo Xứ, tang quyến, thân hào nhân sĩ, các cựu SVSQ/ĐH. CTCT…
Anh Nguyễn Kim Quy sinh năm 1939 ở Xóm Bóng, Nha Trang. Theo học Jean Jacques Rousseau ở Sài Gòn. Tốt nghiệp Cử Nhân Giáo Khoa Văn Chương Pháp, Đại Học Văn Khoa Gòn năm 1963, dạy học tại College Français Nha Trang. Động viên vào Khóa 20 Trường BB Thủ Đức vào Tháng Tư, 1965, ra trường phục vụ tại Tiểu Đoàn 20 CTCT (lúc đó gọi là Tâm Lý Chiến – Dân Sự Vụ), phục vụ ở Đại Đội CTCT 203 tại Ban Mê Thuột và ĐĐ 202 Quy Nhơn rồi thuyên chuyển về ĐĐ 204 Nha Trang.
Tháng Năm, 1969, tôi tốt nghiệp Khóa Nguyễn Trãi I (1966-1969) Trường ĐH.CTCT Đà Lạt, phục vụ tại TĐ 20 CTCT trên Pleiku, biệt phái làm Trưởng Ban Điều Hành Trung Tâm Điều Hợp Tâm Lý Chiến Vùng 2 Cao Nguyên. Đầu năm 1970, đổi về Đại Đội 204 CTCT cùng với anh ở Nha Trang. Vào thời điểm đó, Thiếu Tá Vũ Mạnh Hùng Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 20 CTCT (Sau này đại diện TB Saigon Nhỏ ở Oregon, cùng cư ngụ với KT NKQ và có vài sĩ quan của Trường ĐH.CTCT cùng các sĩ quan xuất thân Khóa Nguyễn Trãi, coi như trong đại gia đình).
Hè năm 1971, tôi theo học Khóa 3 Trung Cấp của quân trường cũ, anh được Bộ Tổng Tham Mưu điều động biệt phái sang Phnom Penh làm thông dịch viên Pháp ngữ cho phái đoàn Liên Lạc Quân Sự.
Hè năm 1972, anh và tôi cùng thuyên chuyển về quân trường này. Năm 1973, anh mang cấp bậc đại úy, Trưởng Khoa Nhân Văn thuộc Văn Hóa Vụ của trường này. GS Nguyễn Hồng Giáp, Phó Khoa Trưởng Trường ĐH Văn Khoa (Viện Đại Học Đà Lạt) bạn học cũ từ thời ở Nha Trang nên mời dạy thêm môn Pháp văn như một giáo sư thỉnh giảng (visiting professor).
Trải qua 8 năm tù, sau khi thả về, anh vượt biên, tị nạn tại Oregon. Nơi này, anh vừa đi “cày” vừa đi học, Hè năm 1991 tốt nghiệp Tiến Sĩ Văn Chương Pháp với luận án về Văn Hào Stendhal tại Eastern Washington University và University of Oregon. Dạy đại học được thời gian, với tính tình cương trực, bất chấp nên tranh cãi với đồng nhiệm, bỏ dạy làm công việc khác.

Từ khi vượt biên cho đến nay, anh chỉ một lần về Nha Trang thọ tang mẹ gấp năm 2006.
Với tinh thần chống Cộng, anh có hai bài thuyết trình tại Pháp: “La prison dans l’œoeuvre romanesque de Stendhal” (Tù ngục trong tiểu thuyết của Stendhal), “Stendhal et mes saisons en enfer Communiste (Stendhal và những mùa của tôi dưới hỏa ngục Cộng Sản).
Cuối năm 1991, anh xuống Little Saigon thăm bạn bè, nhân dịp này tôi viết hai bài “Bông Hồng Cho Người Cựu Tù Nhân Chính Trị” và Giới Thiệu Luận Án Tiến Sĩ Nguyễn Kim Quý (Luận án này dày 550 trang khổ 8.5×11 inches bằng tiếng Pháp nên anh nói tổng quát về nội dung để tôi ghi lại) đăng trên nhật báo Người Việt & tuần báo Saigon Times. Anh có ghi “tặng” tôi hai bài và tôi cũng viết về anh một bài trên Đặc San Nha Trang.
Với bút hiệu Kim Thanh cho những bài viết (hầu hết là hồi ký) ghi lại thời gian ở trong quân ngũ, trong lao tù và tháng ngày nơi đất khách. Anh có trí nhớ rất tốt khi nhắc đến từng người, nhất là những bóng hồng dù không gắn bó “mối tình” nào và những địa danh trong những lần công tác. Anh viết rất thoáng, tự nhiên với người và việc xảy ra, lôi cuốn người đọc. Với tâm hồn nhân bản của người lính, vừa lãng mạn vừa tình người. Hầu hết những bài viết của Kim Thanh, trước hết dành riêng cho Đặc San Ức Trai của Hội Ái Hữu Cựu SVSQ/TĐH. CTCT.
Trong bài viết “Buồn Đến Kiếp Nào Nguôi” với hình ảnh đáng thương tâm:
“Quận Hoài Nhơn, 1969, một năm sau Tết Mậu Thân. Tôi nhận lệnh dẫn một nửa Đại Đội 202 CTCT, từ Ba Gi (Quy Nhơn), đại bản doanh của Sư Đoàn 22BB, ra tăng phái cho Trung Đoàn 40, lúc ấy đóng tại Đệ Đức, trên đường Bồng Sơn và Tam Quan…
Chúng tôi đến Vĩnh Phụng làm công tác Dân Sự Vụ và Tâm Lý Chiến… Làm xong bấy nhiêu công việc thì đã hết buổi sáng… Tôi đang lim dim mắt, miên man suy nghĩ chuyện đời, và một anh lính đang nghêu ngao một bài vọng cổ, thì bỗng một tiếng mìn nổ vang, từ bờ ruộng, không xa chỗ tôi nằm bao nhiêu. Giật mình chồm dậy, chụp vội cây súng, và thấy một làn khói đen tỏa bay trong không gian. Nghe tiếng kêu la của vài em nhỏ hớt hải chạy về phía tôi: “Ông Thiếu úy ơi, có con nhỏ Út bị thương nằm kia kìa…” (do mìn của du kích VC gài)… Đến nơi, thấy em nằm gục nửa dưới ruộng, nửa trên bờ, một bé gái, tức “con nhỏ Út,” độ tám, chín tuổi, cao và gầy đét như khúc củi, mình mẩy và mặt mày đầy máu, nhuộm đỏ cả chiếc áo cụt trắng. Mấy đứa trẻ mách: “Út ra ruộng sớm, mót lúa, đã đạp phải mìn gài sẵn…” Bé bị thương lúc đó rất nặng và không còn thời gian chở đi bệnh viện ở Bồng Sơn.
“… Tôi bật khóc, ôm bé vào lòng, hôn lên trán, lên tóc bê bết máu, mà nước mắt tuôn rơi như mưa, chảy xuống ướt chiếc áo trận, hòa lẫn với máu của bé chưa khô. Vừa lúc ấy, trên cặp môi tím ngắt bé như cố nở một nụ cười mãn nguyện. Rồi ngoẹo đầu vào ngực tôi, bé làm động tác muốn giơ hai cánh tay lên, nhưng không đủ sức, lại bỏ xuống, và nửa giây sau, bé từ từ nhắm mắt, và trút hơi thở cuối cùng trong tay tôi. Tất cả diễn ra không đầy bốn phút, từ lúc gặp bé nằm ở bờ ruộng.
Tôi nhẹ nhàng buông xác bé xuống, đặt nằm ngay ngắn trong tấm poncho còn mới của tôi. Bé đã được liệm bằng poncho, giống như một người lính chiến thật sự. Giống như những đồng đội của tôi chết trận, mà tôi được chứng kiến, tại Ban Mê Thuột, Kontum, Phan Thiết… năm nào. Chung quanh, mọi người vẫn đứng yên, lặng thinh, mắt đỏ hoe, kể cả tốp lính địa phương quân vừa kịp đến để chứng kiến cảnh tượng thương tâm này. Tôi biết, cũng như tôi, những người lính, rất chai lì vì phải thường trực thách đố với cái chết cận kề, và định mệnh tàn nhẫn, không khóc dễ dàng. Nhưng trước thân xác gầy guộc, đẫm máu, của Út, một bé gái nạn nhân vô tội của chiến tranh khốc liệt, phi lý, cây cỏ cũng khóc theo, huống chi người!”
Trong bài viết Đêm Xa Người (Hương Mai, Tình Chết Theo Mùa Đông) ghi lại vài mẫu chuyện khi làm Trung Đội Trưởng TĐ Chính Huấn của Đại Đội 204 ở Nha Trang (ghi tặng TND Vương Trùng Dương) với các cuộc gặp gỡ các Nữ Huấn Đạo. Lúc đó anh ở bên ở bên Xóm Mới đến đơn vị phía dưới căn cứ Không Quân với chiếc xe, theo anh “Chiếc Peugeot 203 bụi đời đen, cũ kỹ, sang số tay, thời Bảo Đại còn mặc tã, rất bụi theo hai nghĩa, mượn dài hạn của ba mẹ tôi, không bao giờ được lau rửa trong ngoài, sách báo đầy ngập sàn xe”. Và hình ảnh với chàng sĩ quan độc thân:
“Và rồi từ đêm đó, tôi không còn gặp lại nàng. Vì bận bịu công việc và vài hình bóng khác lướt nhẹ vào đời, chiếm chỗ của nàng, tôi không về Nha Trang bao giờ nữa. Thỉnh thoảng nhớ Hương Mai và những kỷ niệm có nàng, tôi thở dài, lòng thấy bùi ngùi và buồn vô tả.”
Trong bài viết Đá Nát Vàng Phai ghi lại nỗi đau khi anh ở trong trại tù ngoài Vĩnh Phú với hoàn cảnh gia đình Nguyễn (lấy họ của anh):
“Mẹ tôi, đã ngoài tám mươi, vẫn còn nơi quê nhà, ở với Huyền Trân và chồng con. Ba tôi mất, không được gặp mặt. Những người em “cải tạo” về, lần lượt định cư tại các nước, trừ Kha chết trong tù. Bội Trân ở vậy, không yêu ai nữa, đúng theo lời thề hứa, trước khi trở thành một nữ tu dòng kín, giữa tuổi thanh xuân, làm nhiều con tim tan nát. Lệ Ngà yên ngủ giấc ngàn thu, sau một cơn bạo bệnh, trả hết cho dương gian những si mê và tình yêu mật đắng…”
Và sau này khi tị nạn ở Oregon với tâm trạng “Còn tôi, sau bao năm vật vã để vá lại mảnh đời rách mướp, đã bắt tay được với hạnh phúc nhỏ nhoi so với nỗi đau ngút ngàn phải trải qua. Nhưng hồn vẫn chơi vơi theo kỷ niệm chỉ chực òa vỡ mỗi lần ở đầu dây tiếng mẹ và em từ bên trời cũ…”.
Bài viết Buôn Hô, Nỗi Nhớ… Trong chuyến công tác, khi ghé lại gia đình song thân gốc Quảng Trị và Huế “Với một đàn con tám đứa mà hết bảy là con gái, sanh năm một. Tất cả đều xinh đẹp. Cô chị cả, tên Xuyến Nhi, tuổi độ đôi mươi.
“Xuyến Nhi có vẻ đẹp thùy mị, mộc mạc của một cô gái sinh ra và lớn lên tại miền “sơn cước.” Vóc dáng cao thon, khỏe mạnh, và nước da luôn trắng hồng.. Mái tóc buông dài, đen tuyền, đầy hương, như một cô tiên trong truyện cổ tích….”
Xong chuyến công tác “Tôi bỏ lại ánh mắt của Xuyến Nhi còn quyến luyến trông theo, bàn tay, mà chưa một lần tôi nắm lấy, buồn rầu vẫy vẫy tiễn đưa, và những lời tình ngọt ngào, mà môi mắt cùng hiểu và thầm hẹn, sẽ trao cho nhau, khi được gặp lại nhau một ngày nào, một nơi nào, hay một kiếp nào. Xuyến Nhi ở lại, để người về tương tư, cùng với núi, rừng, và mây ngàn, từ đó.”
Rồi hai mươi ba năm sau, 1989. Anh tình cờ gặp Amy (Thiện Tơ) ở Oregon “giống hệt một người mà anh yêu mến…” dù chưa một lần cầm tay “người tình.” Sau những lời trò chuyện, Xuyến Nhi qua đời, nỗi đau trong anh. Thiện Tơ nhớ lại hình ảnh người chị thân yêu ngày xưa với anh nên bày tỏ:
“Anh ngồi xuống đây với em. Hãy hôn em. Hãy hôn môi em, nồng nàn như anh cứ tưởng đang hôn chị Xuyến Nhi. Em yêu anh, thay cho chị, với tình yêu và thân xác của em đây. Anh nói em giống chị như in cơ mà! Từ ngày sống với Dự, sa vào vũng lầy nhục dục bệnh hoạn, thô bạo, em thèm những nụ hôn nhẹ như sương chiều lướt qua mặt nước hồ thu, như sợi tơ trời giăng mắc trên đầu non, êm như thơ, mà nồng cháy yêu đương, thấm xuống tận xương tủy và hồn mê. Em thèm một lời thì thầm, âu yếm, rót mật vào tai và ru em vào mộng mị. Em bị bệnh trầm cảm nặng rồi đó anh, sợ việc chăn gối, sợ loại đàn ông thô lỗ, sợ mỗi cử chỉ vũ phu, cuồng dâm. Tại sao em không được gặp lại anh sớm hơn, trời hỡi, khi chiến tranh chấm dứt, khi em đến tuổi lớn khôn, khi chị Xuyến Nhi không còn nữa, để bây giờ phải ôm một nỗi tiếc nuối ngập tràn, vì lầm lỡ?”
Nhưng anh không đáp ứng lời mong đợi của Thiện Tơ “Và đó là lần cuối cùng tôi gặp Thiên Tơ… Từ Cheney, vì quá bận, tôi hẹn một ngày nào trở lại nơi Eugene thăm nàng, điều mà tôi cứ hối tiếc mãi. Một năm sau, được tin nàng bị anh chồng cũ, Dự (Việt kiều về cưới Thiện Tơ), trong một cơn say, hay cơn ghen, hay cơn điên, bắn khi quá giang xe của một thanh niên Mỹ, một thực khách quen của nhà hàng, mà Dự tưởng lầm là bồ của nàng. Thấy nàng chết tại chỗ, Dự kê súng vào màng tang, bóp cò, tự sát. Anh thanh niên Mỹ bị thương nặng, nhưng được cứu sống, đã lên đài địa phương kể lại tấn thảm kịch đầy phi lý này.”
Khi đọc những bài Kim Thanh, theo tôi biết, anh viết chân tình những gì đã xảy ra trong cuộc đời của bản thân. Khi anh viết về Xuyến Nhi làm tôi liên tưởng đến hình bóng… khó quên nên rất tâm đắc.
Bài viết Một Ngày Với Mùa Xuân Hà Nội khi ra tù:
“Ba thằng chúng tôi, hai Nam kỳ, và một Trung kỳ, không có dây mơ rễ má gì với cố đô Hà Nội… Tiếp tục dạo phố. Vừa đi tôi vừa quan sát, ngắm nhìn thiên hạ, vừa nghĩ đến những giai nhân Hà Thành trước kia, mà suốt bao năm tôi đã ấp ủ trong tim bóng hình thướt tha và giọng ca vàng đầy chất Hà Nội được phát thanh trực tiếp trên các làn sóng Sài Gòn…
Những cô gái, gọi là Hà Nội, dưới thời Việt Cộng, mà hôm nay tôi mới được diện kiến trực tiếp, thấy khác lạ quá đỗi. Đã thiếu nhan sắc, và thước tấc, mà lại kênh kiệu, nói năng cộc lốc, không bao giờ được học và nói hai chữ “cám ơn” và “xin lỗi”…
Lạ lắm, trời ạ! Tiếng Hà Nội gì mà nghe như pha với giọng Nghệ An của “Bác”, hay Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Quảng Bình. Những dấu sắc, huyền, nặng, hỏi, ngã phát ra lung tung, loạn xạ, tùy tiện. Nghe chua lè, còn hơn giấm. Bởi thế, khi giọng nói Hà Nội ấy bay vào Miền Nam, sau cuộc đổi đời, người dân Sài Gòn nhận ra ngay sự khác biệt rõ rệt giữa hai thứ tiếng Bắc kỳ, (19)54 = 9 nút, của Kim Tước, Thái Thanh… và Bắc kỳ, (19)75 = 2 nút, rất lơ lớ, chói tai, của những ca sĩ trẻ, từ Hà Nội, ồ ạt Nam tiến, rồi sau đó và bây giờ, thừa thắng xông lên, xâm nhập luôn những cộng đồng Việt Nam tỵ nạn tại Mỹ, vô tình hay hữu ý thực hiện chủ trương “giao lưu văn hóa” của VC…”
Khi bước vào tiệm ăn quốc doanh “Cả đám bật đứng lên, bước đến phía quầy, thấy một lô tô phở, không nước, làm sẵn đồng loạt từ lâu, nằm chình ình trên một cái khay lớn. Nghĩa là khách địa phương, rành thủ tục, chỉ có việc đến quầy trả tiền, lúc đó các cô “phục vụ” mới đổ nước lèo nóng vào, rồi tự động ai nấy bưng tô phở ra bàn. Phở lơ thơ vài cọng rau, chỉ có một lát thịt bò thái mỏng như lưỡi lam cạo râu, sẵn sàng bay theo cơn gió vô tình lướt qua. Nước phở còn nhạt hơn nước ốc”…
“Ba mươi hai năm qua, kể từ ngày ấy. Biết bao nhiêu chuyện đời xảy đến. Từ Mỹ, tôi đã đi thăm nhiều thủ đô lớn, nhỏ trên thế giới. Nhưng vẫn không sao quên được hình ảnh Hà Nội tuyệt đẹp, mà tôi đã gặp trong sử sách, cùng với hình ảnh cố đô Thăng Long cổ kính và huyễn mộng qua hàng chục thế kỷ chiến tranh giữ nước. Thăng Long, hay Hà Nội. Của một Phù Đổng Thiên Vương đại phá giặc Ân, rồi cưỡi thiết mã bay về trời. Của một Lý Thường Kiệt đứng trên sông Như Nguyệt, sang sảng ngâm bài thơ, được xem là bản tuyên ngôn đầu tiên về chủ quyền quốc gia Việt Nam, cách đây mười thế kỷ, độc đáo nhất, quyết liệt nhất… Của một Trần Nhân Tông và các bô lão trong Hội Nghị Diên Hồng, đồng thanh quyết chiến đến cùng. Của một Trần Hưng Đạo với câu nói, có một không hai trong lịch sử nhân loại về sự hy sinh tột độ cho đất nước: “Bệ hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng” là danh tướng duy nhất trong quân sử thế giới đã đánh bại đế quốc Mông Cổ (nhà Nguyên), hùng mạnh nhất lúc bấy giờ, bách chiến bách thắng, mà vó ngựa đã giẫm nát toàn cõi Đông Âu, Nga, Trung Đông và Đông Nam Á. Của một Trần Bình Trọng, bị bắt, với thái độ hiên ngang, ngẩng cao đầu trước địch quân: “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc.” Của một Lê Lợi với hơn mười năm kháng chiến nằm gai nếm mật. Của một Nguyễn Trãi với chính sách thu phục nhân tâm diệu kỳ, “Lấy trí nhân thay cường bạo.” Của một Nguyễn Huệ với những chiến thắng mùa xuân thần tốc lẫy lừng. Của một Hoàng Diệu, Tổng Đốc trung liệt, đã tuẫn tiết cùng chết với thành Hà Nội…
Hà Nội ấy, một lần đi qua, tôi sẽ không bao giờ trở lại, dù chỉ một giờ, một phút…”.
Khác với lối hành văn của Kim Thanh, ngoại hiệu Người Lính Già Oregon (NLGO) với ngòi bút sắc bén, quyết liệt, đanh thép, tinh thần dũng cảm, chống Cộng tới bến, với các phần tử “Ăn cơm Quốc Gia, thờ ma Cộng Sản,” những kẻ bất đồng chính kiến. Dĩ nhiên NLGO không thể yên thân “Cá nhân tôi và một số nhân sĩ thân hữu, trước đây, cũng vì viết những bài chống Cộng, đã bị bọn xấu, toàn là nặc danh tại Oregon tuần nào cũng mang ra chửi ra rả trên một tờ báo địa phương (nay đã tự xin chết vì không ai đọc, thiếu quảng cáo, nghĩa là hết tiền) và thỉnh thoảng bây giờ trên mạng. Dĩ nhiên, đối với bọn nặc danh, chúng tôi không thể hạ mình đôi co. Chúng lên án tôi “chống Cộng quá khích,” “mù quáng,” “cực đoan,” “không khoan nhượng,”…
Có vài bài, NLGO sử dụng ngôn ngữ mà anh gọi “không được tử tế” vì với ma, quỷ không thể nào dùng văn chương chữ nghĩa để trừ tà mà “ăn miếng trả miếng”, nghĩa là phải đốp chát tới nơi. Bài viết của anh dẫn chứng rõ ràng, không ngại đề cập từng nhân vật tráo trở, phản bội quê hương tổ quốc đã từng cưu mang. Anh ít dùng chữ tôi mà tiện nhân.
Anh gửi bài viết cho tôi và ghi “Nếu đăng, không được thêm, bớt chữ nào.” Tuy trân trọng anh và bài viết nhưng tôi ở trong tình thế khó xử. Tôi viết email trao đổi với anh vài lý do… Thứ nhất, bài viết phổ biến trên internet “vô thưởng vô phạt” ai thích thì đọc nhưng với tờ báo tôi chủ trương khách quan và đáp ứng quan niệm của độc giả về nội tình chính trị ở Mỹ với hai chính đảng nên không vì đề cao lãnh đạo bên này, đả kích bên kia. Thứ hai, trong số người Việt, có những kẻ “phản bội” với cộng đồng người Việt tị nạn nhưng không khẳng định nêu đích danh mà đặt nghi vấn để tránh rắc rối về pháp lý. (Anh đã bị kiện tụng một lần và được sự hỗ trợ tinh thần và tài chánh của các đồng môn xuất thân từ quân trường ĐH,CTCT, tai qua nạn khỏi)… Sau đó, anh không còn gửi bài viết nhưng các bài viết NLGO đọc trên internet về Việt Nam, tôi đã phổ biến.
Anh là mẫu người NLGO cương trực, thẳng tính, giữ vững tinh thần chiến đấu trên ngòi bút của người lính đáng tôn trọng, tuy nhiên với tôi có lẽ “cố chấp” phần nào… Tuy nhiên tình bằng hữu luôn quý trọng.
Trong chuyến vượt biên ở Cần Giuộc, anh bị công an bắt, phang khúc gỗ ngang lưng nên sau này vào tuổi già, sức khỏe yếu không còn sức đề kháng nên ngồi được để viết.
*
Có kỷ niệm đáng nhớ, năm 1993 anh xuống Little Saigon chơi, anh làm tài xế chiếc xe Mercedes của chị Kiều Mỹ Duyên cùng Thiết Trượng và tôi xuống San Diego chơi. Trên đường đi vì mải mê trò chuyện nên không để ý xăng nhớt, khi vừa rời freeway vào exit thì báo hiệu hết xăng. Xe phải dừng lề đường, anh phải đi xa tìm cây xăng. Trời nắng nóng, chị KMD phải ngồi trong xe, anh nói TT và tôi đứng bên lề hút thuốc. Khoảng một giờ sau, anh xách can xăng về, mồ hôi nhễ nhại. Trong chuyến đi này chúng tôi đề cập đến các bài viết của phóng viên chiến trường Kiều Mỹ Duyên. Anh là người lên tiếng và khích lệ phải ấn hành tác phẩm. Tháng 7 năm 1994, tác phẩm Chinh Chiến Điêu Linh ra đời với Tựa của nhà thơ Nguyên Sa. Tôi nói với chị KMD, nếu không có chuyến đi này thì không có Chinh Chiến Điêu Linh… Sách gồm 22 chương, dày 384 trang. Tác giả dành một số sách ưu tiên gửi tặng trước khi phát hành. Với tôi chị ghi “Nhớ ơn sự khuyến khích”… Và đây là một trong những quyển sách ra đời ở Little Saigon được tái bản nhiều lần nhất. Năm 2018, tôi phụ trách section B của nhật báo Sài Gòn Nhỏ, chị gửi 22 chương trong quyển sách, lần lượt phổ biến vào số Thứ Tư hàng tuần.
Kể từ khi gặp anh Kim Thanh Nguyễn Kim Quý, cũng vào thời điểm này vào năm 1970 đến nay tròn 55 năm. Kẻ ra đi, người ở lại. Chị KMD liên lạc với tôi, viết về anh vì cả hai có những điểm giống nhau và hiểu nhau nhiều. Với Việt Hải tuy “Văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình” nhưng thích những bài viết NLGO nên nói tôi cố gắng “thắp nén nhang” với người thiên cổ.
Khi xem video của Vũ Ngọc Hải, người bạn cùng khóa, tang lễ trân trọng và ấm cúng với sự hiện diện, chia sẻ của quý vị linh mục, thân hữu… thể hiện sự thương tiếc, quý mến với người quá cố, tôi rất xúc động.
Thật tình, anh và tôi ở xa nhau, trước đó mới thỉnh thoảng gặp nhau nên không biết nhiều về đời sống và sinh hoạt của anh sau này nhưng trong trong những thập niên qua nhưng “chữ nghĩa” là nhịp cầu để chia sẻ cho nhau.
Little Saigon, March 2025