Tôi cảm nhận tiếng “dạ”, tuy có âm dấu nặng nhưng không nặng nề mà sâu lắng bền gốc trong tâm hồn người dạ và người nghe. Thật sự tiếng dạ có hình ảnh của một cái cúi đầu không phải để tuân phục cũng không phải cố bám giữ lời hứa, không khách sáo lấy lòng mà cũng không để kiêu kỳ lên mặt, tất thảy tiếng dạ là biểu hiện đồng thuận chân thật.
Người miền Nam từ xửa từ xưa, sau các tiếng gọi ba, gọi má, gọi ông, gọi bà; thì tiếng dạ nối liền theo từ đầu đời để thành người Việt cho đến khi lìa đời để thành hồn ma người VIệt. Trong cộng đồng hàng ngày nói: Dạ, tiếng dạ vừa như một dòng sông lớn vừa như từng giọt nước ngấm dịu ngọt vui lòng từng người, rồi mở ra mênh mông sự hài hòa dung bồi tánh chân thật của cộng đồng.
Tôi đã học nói tiếng dạ, đã lắng nghe tiếng dạ, đã dạy con tiếng dạ từ bao lâu rồi? Nếu có ai đó, quyền lực chuyên chế muốn chuẩn hóa tiếng Việt để thay tiếng dạ bằng tiếng khác thì sao? Tất nhiên với thế hệ tôi thì không chấp nhận, nhưng với thế hệ hiện nay thì các em cháu đó không có quyền chọn lựa hoặc bị tập có thói quen bỏ và quên không nói tiếng dạ nữa.
Tôi nhớ nhiều chục năm trước khi ra Hà Nội, lúc đi ăn tối với bạn, khi gọi tính tiền, người đàn ông bán hàng nói gì đó tôi không hiểu, tôi có hỏi lại và cố lắng nghe vẫn không hiểu, nên bạn đi cùng tôi phải giải thích rằng: “Ông ấy nói: vâng, vừa xin”. Tôi hiểu, và cái cảm giác đã hiểu được khiến tôi vừa thấy hay vừa chính xác, bởi tiếng vâng đó khác hẳn với tiếng vâng của các cô nàng xinh đẹp, anh chàng điển trai làm MC, bình luận viên, diễn viên… đang nói “vâng” liền miệng khắp hệ thống tuyên truyền từ Bắc tới Nam mà đố ai biết họ có thật lòng “vâng” như kiểu họ tía lia không. Thấy tội đến tức cười khi nghe người nói đúng giọng miền Nam mà lại một “vâng”, hai “vâng”, ba cũng “vâng” tuốt luốt.
Tiếng dạ, cũng có khi được dùng như tiếng đệm, tiếng nối, tiếng kết một câu nói nhưng người miền Nam ít chọn sử dụng tiếng “dạ” kiểu đó. Với tôi, người thân của chúng tôi, tiếng dạ được sử dụng bình thường, rất bình thường để biểu lộ sự đồng ý, đồng tình, đồng thuận thật lòng; và trên hết tiếng dạ còn chứng minh lòng tôn trọng, kính trọng, tín thác không một chút phân biệt giai tầng, địa vị, sang hèn, giàu nghèo… với người được mình dạ và dạ lại với người vừa dạ mình.
Tôi biết là trong tham vọng ngông cuồng chuẩn hóa tiếng Việt của giới cai trị, có thể một ngày nào đó em cháu tôi sẽ chỉ nói “vâng” với tôi. Tôi không viết bài này như cách phân tích lợi hay hại của các nhà ngôn ngữ học về phát âm vùng miền. Tôi viết vì tôi thương, tôi quý, tôi tôn kính tiếng dạ tôi dùng và được người dùng cho tôi. Áp đặt quyền cai trị chuyên chế cho tiếng Việt đó là quyền của họ. Tôi chọn thủy chung nói tiếng dạ là phẩm giá ý thức và tình yêu chân thành mà chúng tôi thuộc về, bởi đến từng ngọn cỏ, nụ hoa, côn trùng… của đất trời miền Nam sinh dưỡng nên chúng tôi cũng từng phút, từng giờ được con người thật lòng nói: Dạ, cám ơn!