Để thực hiện bài nầy, ngoài mối giao tình giữa tôi và nhà sưu khảo được lần lượt tái hiện qua trí nhớ, còn có sự tiếp tay của văn hữu Lê Cần Thơ (tức Lê Hoàng Viện, Huyền Vân Thanh) qua việc cung cấp nhiều nguồn tư liệu quý cũng như sao chụp một số bìa sách và thủ bút của ông Nguyễn Bá Thế. Ngoài ra cháu Nguyễn Thị Băng Trinh- ái nữ của nhà sưu khảo đã cho phép Nguyễn Văn Nở sao chụp trong Quyển sổ lưu niệm của ông, bài thơ do Trúc Lan tôi sáng tác để dành tặng người bạn văn vong niên ngày 16/9/1976. Xin gởi lời cám ơn nồng hậu nhứt đến nhà văn Lê Cần Thơ, cháu Nguyễn Thị Băng Trinh và cựu môn sinh Đại học Cần Thơ- PGS TS Nguyễn Văn Nở.
Lịch sử văn chương Việt Nam cũng như thế giới đều ghi nhận một thực tại vô cùng chua xót: Phần lớn các văn thi sĩ trước khi thành danh thường trải qua cảnh ngặt nghèo khốn khó. Nguyễn Công Trứ đã từng sống cảnh “ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch”, Trần Tế Xương phải “chạy ăn từng bữa”, Vũ Trọng Phụng đã chết trong cảnh lầm than…Và Nguyễn Bá Thế cũng không ngoại lệ. Đó là đề tài tôi muốn viết về nhà sưu khảo văn học Nhất Tâm Nguyễn Bá Thế.
Duyên lành gặp gỡ. Tôi quen nhà sưu khảo Nguyễn Bá Thế từ trước năm 1975 lúc về giảng dạy ở Đại học Cần Thơ. Có lần tôi chở ông trên chiếc xe gắn máy đến viếng mộ cụ Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa, sau đó mời ông một tách cà-phê để làm quen và kết tình văn nghệ. Bấy giờ ông đi đứng không vững và lãng tai nặng. Phải kề miệng sát lỗ tai và nói lớn tiếng ông mới nghe được. Sau biến cố Tháng Tư 1975, đúng ra là từ giữa cuối năm 1976, chúng tôi mới được dịp tái ngộ. Cứ vài ba tuần tôi đến gặp người bạn văn vong niên để mạn đàm thế sự, bàn luận văn chương.
Từ chỗ sơ giao đến chỗ thân tình, chúng tôi thật sự quý mến nhau qua mối duyên văn nghệ. Thật ra lúc bấy giờ là cao điểm của thời kỳ bao cấp, ai nấy đều phải thắt lưng buộc bụng, thiếu thốn mọi bề, phải vật lộn với cuộc sống, với cái ăn, cái mặc. Đặc biệt là cái ăn. Cơm gạo không đủ, phải độn khoai, độn bắp và bo bo vi bản. Cái điệp khúc ai nấy đều đã nếm trải: Sổ hộ khẩu – sổ gạo – sắp hàng, đôi khi phải chen lấn, giành giựt mới mua được một món hàng “khiêm tốn”. Cho nên bàn chuyện văn chương là bàn chuyện hái sao trên trời, mò kim dưới biển xa rời thực tế.
Bấy giờ ông hoàn toàn không còn khả năng nghe được nên chỉ trò chuyện qua bút đàm. Thính giác của ông dầu bị khép lại, nhưng bù vào đó là đôi mắt tinh anh, đầu óc mẫn tiệp- nhứt là giọng nói trong trẻo, nồng ấm có sức lôi cuốn và chiếm trọn cảm tình người được tiếp xúc. Tôi có thể mượn ý thơ cụ Đồ Chiểu để viết về nhà văn hóa Nguyễn Bá Thế: “Sự đời đà khép đôi tai thính; Nghiệp văn giữ tròn một tấm gương”. Ông nhắc tôi nên ghi một vài cảm nghĩ trong Quyển sổ lưu niệm của ông. Nhưng tôi chỉ hẹn lần hẹn lữa.
Vài nét về tiểu sử
Nguyễn Bá Thế sanh ngày 19 Tháng Mười Một 1925 tại làng Thường Thạnh, thị trấn Cái Răng, Cần Thơ. Ngoài tên họ thật, hầu hết tác phẩm của ông còn ký các bút danh Thế Nguyên, Nhất Tâm, Nam Xuân Thọ. Thời niên thiếu, ông có cuộc sống nghèo khổ nhưng hiếu học- nhứt là tự học không ngừng, có thể so sánh với sức tự học dẻo dai bền bỉ của GS Bửu Cầm và thi sĩ Đông Hồ ở Đại học Văn Khoa Sài Gòn.
Là cựu học sinh trường Trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ, vốn lưu loát chữ quốc ngữ, ông còn đọc thông, viết thạo tiếng Pháp và chữ Hán. Thừa hưởng tinh hoa của thân phụ- tức nhà thơ, nhà soạn kịch Nguyễn Bá Thọ (Nam Sơn), ông nung nấu ý chí trở thành một nhà văn hóa. Lúc còn mài ghế nhà trường, ông đã bắt đầu sáng tác thơ văn. Sau đó viết tiểu thuyết, dịch sách và miệt mài sưu tầm, biên soạn văn học- cụ thể là các tác gia miền Nam, cũng như danh nhân lịch sử Việt Nam và Trung Quốc. Từ đó về sau, ông đã thành danh nhà văn, nhà sưu khảo không riêng gì ở miền Tây mà còn lan rộng khắp cả nước.
Đến thăm ông, ai cũng cảm thấy đau lòng khi nhìn tận mắt nơi ăn, chốn ở và nghe tận tai về hoàn cảnh kinh tế gia đình của một nhà văn hóa. Căn nhà trệt mái tôn lụp xụp ở hẻm Vú Sữa mang số 15/59 đường Duy Tân (nay là Hoàng Văn Thụ, quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ) do nhạc phụ ông mua cho, vào mùa nắng thì nóng như đổ lửa, “bóng nắng giọi trứng gà trên vách”, còn mùa mưa thì nước len lỏi trên vách, xuống sàn nhà lót gạch Tàu, bốc mùi ẩm mốc khó chịu.
Vậy mà “căn nhà kỷ niệm” ấy đã gắn bó với ông suốt cả đời để ông yên lòng viết lách, theo đuổi nghiệp văn. Còn vợ ông từ thời bao cấp phải bỏ nghề giáo, đi buôn bán hàng rong ở chợ Ninh Kiều để phụ giúp việc sanh kế gia đình. Bất giác tôi liên tưởng tới hình ảnh thân cò lặn lội của bà Tú Xương mà cảm tác mấy câu thơ: “Quanh năm quần quật gánh hàng rong / Bươn chải nuôi con với một chồng!”.
Những năm tháng gần cuối đời, số phận nghiệt ngã ập đến đời ông. Bị nhĩ tật chưa đủ, tạo hóa khéo cơ cầu bắt ông phải liệt thân nên mọi sanh hoạt hằng ngày đều bị hạn chế. Mặc dầu ở thế bi kịch, ông không đầu hàng số phận, mà trái lại vẫn lạc quan vui sống, miệt mài làm việc, phục vụ cho đời đến mức tối đa! Sau một thời gian dài chống chọi với bịnh tật, ông trút hơi thở cuối cùng vào ngày 02 Tháng Ba 1996 tại Cần Thơ, hưởng thọ 71 tuổi, để lại niềm tiếc thương vô hạn của người vợ hiền đảm đang và các con hiếu hạnh cũng như của đông đảo bằng hữu, văn thi hữu từ Nam chí Bắc. Ông được an táng tại nghĩa trang Từ thiện, bót số 10, Châu Thành, Cần Thơ.
Văn nghiệp
Trong giai đoạn đầu cuộc đời cầm bút, ông Nguyễn Bá Thế làm thơ, viết báo, tiểu thuyết và dịch thuật. Về sau ông nghiêng hẳn về sưu khảo văn học và soạn từ điển. Văn phong bình dị, trong sáng, không cầu kỳ trau chuốt. Văn nghị luận đanh thép, rạch ròi, tham khảo nhiều tư liệu- kể cả tư liệu sống, “nói có sách, mách có chứng”.
.Về thơ. Ông làm thơ không nhiều lắm, đăng rải rác trên các báo địa phương và Sài Gòn. Một số bài thơ khác chưa hề phổ biến vì ông muốn viết cho riêng mình, cho bè bạn tâm giao. Ông có tập Thơ Vịnh Kiều độ 200 trang viết tay trên giấy tập học trò, định có dịp sẽ xuất bản. Vì quá tốt bụng và tin người, ông cho một văn hữu ở Sài Gòn mượn để tham khảo, nhưng quên trả lại.
Một thời gian sau, ông vô cùng ngạc nhiên khi thấy tập thơ của mình đã được xuất bản, tác giả không phải ông, mà là một “nhà văn hóa” có chút tiếng tăm- tức N.V.Y. (Tôi thuật lại việc “cầm nhầm” nầy với sự dè dặt, cẩn trọng dựa theo lời kể của chính ông và sự xác nhận của văn hữu Lê Cần Thơ). Tập thơ duy nhứt được xuất bản của ông là Một Kiếp Tằm Tơ (ký Nhất Tâm – 1996).
.Về báo chí. Nhà báo Nguyễn Bá Thế đã cộng tác với rất nhiều nhựt báo và tạp chí ở miền Nam từ năm 18 tuổi (1943) như Điện Tín, Thời Cuộc, Chuông Mai, Việt Bút, Buổi Sáng, Đuốc Nhà Nam, Tiếng Dân, Hoà Đồng, Văn Đàn, Thế Giới, Phổ Thông, v.v… Các bài đăng báo cũng như các đầu sách xuất bản khi thì ông ký tên thật, lúc với bút danh Thế Nguyên, Nam Xuân Thọ hoặc Nhất Tâm. Hãy nghe ông tâm sự với Lê Cần Thơ:
“Tên họ thật của tôi là NGUYỄN BÁ THẾ, ký tên THẾ NGUYÊN, tức là tên THẾ với họ NGUYỄN bỏ bớt dấu ngã. NAM XUÂN THỌ là một cửa hiệu của thân phụ tôi, cũng là nhà thơ, nhà soạn kịch, tên thật là NGUYỄN BÁ THỌ, bút hiệu Nam Sơn. Năm 1945 ông thân tôi mất. Do tấm lòng hiếu thuận, tôi mang danh NAM XUÂN THỌ để biểu dương tinh thần thân phụ tôi sống mãi với đời. Còn bút hiệu NHẤT TÂM, vì tên tôi là THẾ, về mặt chữ Hán, chữ THẾ có một nét ngang, tượng trưng cho chữ NHẤT; vòng chữ THẾ tượng trưng cho chữ TÂM, vì vậy NHẤT TÂM tức là chữ THẾ chiết ra. Lại nữa, tôi dùng phương châm với câu “NHẤT sanh háo đức TÂM như thạch”, và “Thường bả NHẤT TÂM hành chánh đạo”(1).
Năm 1973, tại Cần Thơ, ông đứng tên chủ biên tạp chí Miền Tây Thăng Hoa với tôn chỉ: “Tô điểm non sông VIỆT, Bồi dưỡng văn hóa VIỆT”, Huyền Vân Thanh- tức Lê Cần Thơ phụ trách kỹ thuật. Đến số thứ tư đang lên khuôn ở nhà in Cần Thơ ấn quán thì đành phải đình bản bởi biến cố 30 Tháng Tư 1975.
.Về tiểu thuyết. Nhà văn Nguyễn Bá Thế đã “trình làng” vào giữa thập niên 50 những bộ tiểu thuyết như: Lá Cờ Hồng Thập, Lột Vỏ, Tình Và Nghĩa Vụ, Son Sắt Một Lòng… Nhà xuất bản Nguồn Sáng ở Sài Gòn lo việc in ấn và phát hành các bộ tiểu thuyết nầy từ năm 1949. Ngoài ra nhiều báo ngày đã in feuilleton các tiểu thuyết của ông như: Nghị Lực, Cô Giáo Ánh, Cô Ký Hiền, Một Chữ Đồng, Oán Tình, Gió Nghĩa Trăng Tình, Chim Việt Cành Nam…
.Về dịch thuật. Ban Tu Thư Tân Việt đã in một số tác phẩm của dịch giả Nguyễn Bá Thế như Tam Quốc Bình Giải, Kim Cổ Kỳ Quan, Thủy Hử và Tế Điên Hòa Thượng. Theo nhà văn Lê Cần Thơ, truyện dịch Tế Điên Hòa Thượng đã được xuất bản ngay tại Cần Thơ trước năm 1975. Báo The Viet Nam Post ở Houston đã in lại tác phẩm nầy rất nhiều kỳ, mang tựa Tế Công Hòa Thượng, nhưng chẳng ai thèm chi trả tiền nhuận bút cho người dịch! (2)
.Về sưu khảo văn học. Đây là phần trọng tâm trong văn nghiệp của Nguyễn Bá Thế tiên sinh. Họ Nguyễn đã soạn nhiều đầu sách về danh nhân Việt Nam- hầu hết ở Lục tỉnh, và giao cho nhà Tân Việt của ông Lê Văn Văng lo việc xuất bản. Đó là những bộ sách trong Tủ Sách NHỮNG MẢNH GƯƠNG dùng tham khảo trong chương trình bậc Trung học như:
Sương Nguyệt Anh (1956), Huỳnh Thúc Kháng (ký Thế Nguyên, 1956), Phan Văn Trị (ký Nhất Tâm, 1956), Bùi Hữu Nghĩa (1956), Huỳnh Mẫn Đạt (ký Thế Nguyên, 1956), Võ Trường Toản (ký Nam Xuân Thọ), Nguyễn Đình Chiểu (1956), Nguyễn Văn Vĩnh (1957), Tôn Thọ Tường (1957), Phan Thanh Giản (ký Nam Xuân Thọ, 1957), Học Lạc(1958), Phan Bội Châu (1958), Phan Chu Trinh (ký Thế Nguyên, 1959).
Ngoài ra, từ năm 1963, tuần báo Văn Đàn của Phạm Đình Tân đã giới thiệu nhiều bài biên khảo giá trị của ông như Nguyễn Trường Tộ, và loạt bài Khảo Về Tiếng Việt gây được tiếng vang trong văn giới. Chưa hết, nhà sưu khảo Huỳnh Minh (nhà xuất bản Cánh Bằng ở Sài Gòn) còn “lợi dụng” ông trong việc hợp tác biên soạn một số sách loại sưu khảo “Xưa và Nay”, nhưng chỉ một mình ông Huỳnh Minh được hưởng lợi từ tác quyền tới tiền nhuận bút. Cụ thể là các quyển Cần Thơ Xưa Và Nay, Gia Định Xưa Và Nay.
Theo nhà văn Lê Cần Thơ, để soạn cuốn Gia Định Xưa Và Nay, “ông Huỳnh Minh đã mời ông Nguyễn Bá Thế lên Sài Gòn, ở hẳn tại nhà ông trong một hẻm trên đường Phan Đình Phùng để viết liền một mạch trong mấy đêm, xong thì mang đi nhà in nên quyển nầy còn đúng với sự sắp xếp của ông Thế. Như vậy, việc xuất hiện những quyển sách trong tủ sách nhà xuất bản Cánh Bằng của ông Huỳnh Minh phần nhiều có sự biên soạn của ông Nguyễn Bá Thế, nhưng không có ông đứng tên” (3).
.Một số bản thảo. Chí Sĩ Trên Đường Duy Tân Cứu Nước, Gương Nữ Lưu, Gương Nghĩa Liệt, Cao Hiền Xử Sĩ, Giai Thoại Văn Chương… và những di cảo mang chủ đề: Gương Chí Sĩ, Tinh Hoa Nòi Việt, Những Bậc Cao Tăng, Những Bậc Tiết Nghĩa, Phụ Nữ Lỗi Lạc, Nước Non Nhà, Lối Kim Cổ, Lắng Tiếng Đàn Lòng, Tên Tự, Hiệu Danh Nhân, Cây, Hoa Trái… Cũng theo nhà văn Lê Cần Thơ, được sự ủy nhiệm của gia đình nhà sưu khảo ở quê nhà qua cô Nguyễn Thị Băng Trinh- ái nữ của ông, tác phẩm di cảo Gương Chí Sĩ, trong tủ sách TINH HOA VIỆT NAM được giới thiệu đầu tiên ở hải ngoại (BNS Dân Ta tại Houston, Texas, Hoa Kỳ từ số 158, bộ mới, năm thứ 16, phát hành từ 28/6/1997 đến 11/7/1997).
.Về Từ điển. Đặc biệt bộ Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam
Học giả Nguyễn Bá Thế còn là tác giả hai bộ sách giá trị: Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam (TĐNVLSVN) và Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử Trung Quốc (TĐNVLSTQ). Đây là những công trình tâm huyết được ông bắt tay biên soạn từ lúc ông 30 tuổi (1955), mãi đến 20 năm sau (1975) mới hoàn thành. Sau đó được chỉnh sửa, bổ sung cẩn thận và sẵn sàng xuất bản.
Tưởng cũng nên biết, bộ Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam đã khởi đăng trên tạp chí Miền Tây Thăng Hoa số 3, 1974 (tr.53-93) với tựa đề Việt Sử Nhân Danh Từ Điển để “trước bạ” (Giấy phép xuất bản số 473/74/BDVCH/PHBCNT/ALP/TP ngày 27/8/1974, dầy 100 trang). Số nầy đã phổ biến: Biêp tập đại ý, Lời nói đầu, Phàm lệ, Bản liệt kê danh hiệu các vị Hoàng đế, vương công cự khanh (gồm A. Đế hiệu, B.Vương hiệu, Vương tước, C. Công tước, D. Hầu tước, Đ. Bá tước, E. Tử tước, Ê. Nam tước, Phụ chú (tước hiệu các nhân vật Trung Hoa và các Võ quan Pháp có mặt trên lịch sử ta, có phong tước) (3).
Chỉ với hai bộ từ điển đồ sộ nầy được biên soạn công phu với tinh thần khoa học nghiêm cẩn, tôi có thể nói ông Nguyễn Bá Thế xứng đáng đạt danh hiệu học giả. Bởi vận nước và gia cảnh tới hồi đen đủi không đủ phương tiện xuất bản, lại thêm quá tin người nên hai bộ sách quý của ông bị thiên hạ “đoạt” gần hết.
Chỉ nói riêng về bộ Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam. Bản thảo được thai nghén suốt 20 năm với hơn 4500 nhân vật chưa kịp và không thể chào đời bởi biến cố Tháng Tư 1975. Rồi thời kỳ bao cấp kéo dài suốt 10 năm (1976-1986), cả nước phải khốn đốn vì cơm ăn áo mặc nên mọi ước mơ sách được xuất bản của nhà sưu khảo đã tan theo mây khói. Tôi muốn nói rõ, bộ từ điển nầy chỉ một mình ông Nguyễn Bá Thế biên soạn.
Mãi đến năm 1980, nhờ một “duyên may”, ông được “nhà văn hóa” Nguyễn Q. Thắng- Giảng viên Đại học Cần Thơ, đến thăm và bàn việc “hợp tác” xuất bản sách. Nhờ “công lao” của ông Nguyễn Q. Thắng trong việc “chạy lo giấy phép, lo vốn in v.v…” nên đến năm 1991, bộ từ điển được nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội ấn hành lần đầu năm 1991 (1094 trang), sau đó tái bản tới 14 lần, tác giả theo thứ tự là Nguyễn Q. Thắng – Nguyễn Bá Thế (Ông Thắng đứng trước ông Thế). Có dịp tôi sẽ bàn về việc “tiếm danh” gây lùm xùm trong văn giới một thời.
Kỷ niệm không quên
Vào buổi xế trưa nọ- ngày 16 Tháng Chín 1976, trời nắng đẹp, tôi đến thăm nhà sưu khảo Nguyễn Bá Thế. Cũng với cái xiết tay nồng ấm, nụ cười thân thiện nở trên môi của hai người bạn văn vong niên. Chúng tôi trò chuyện qua bút đàm về văn chương, thế sự vô cùng tương đắc. Tôi viết một câu, ông nói thao thao vài chục phút. Cứ thế mà cuộc trò chuyện kéo dài, có khi cả tiếng đồng hồ. Hôm ấy, nhà sưu khảo say sưa điểm qua một số tác phẩm đã, đang và sẽ xuất bản, công trình nào thực hiện được, công trình nào còn dang dở cùng hoài bão của mình. Ông không quên đem bản thảo hai bộ từ điển ra “khoe” với tôi. Tôi choáng ngợp với công trình đồ sộ nầy và vô cùng ngưỡng mộ sự cống hiến của ông.
– Bộ Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam gồm 4500 nhân vật lịch sử, có người tốt lẫn kẻ xấu, cùng 300 ảnh chân dung. Việc “hợp tác” không mấy vui vẻ, kém sòng phẳng giữa ông Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế trong việc xuất bản bộ từ điển nầy khiến ông càng ngao ngán rồi mang tâm bịnh…
– Bộ Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử Trung Quốc gồm khoảng 10 ngàn nhân vật lịch sử từ cổ xưa đến cận đại, lưu phương (để lại tiếng thơm, tiếng tốt) lẫn lưu xú (để lại tiếng xấu) cùng vô số ảnh chân dung. Điều đáng nói, hai bộ từ điển nầy được soạn giả chép tay bằng mực tím, chữ nhỏ rõ nét nghiêng nghiêng đều đặn trên hàng ngàn trang giấy tập học trò, kể cả phần chữ Hán. Riêng về ảnh chân dung, phải nói là cả một kỳ công, cả niềm đam mê: Nhà sưu khảo phải chi hết số tiền chắt mót để mua đầy đủ báo ngày, báo tháng rồi mày mò, sưu tập, cắt dán; ảnh nào còn thiếu thì hỏi xin bè bạn, v.v…
Thình lình trời đổ cơn mưa. Mưa như trút nước. Mưa nặng hột rơi rào rào trên mái tôn cũ kỹ. “Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách”. Mưa giữ chân tôi lại để được dịp trò chuyện với ông nhiều hơn. Ông đem Quyển sổ lưu niệm ra nhắc tôi ghi vào một vài cảm nghĩ của mình. Tưởng cũng nên biết, nhà sưu khảo có tới mấy Quyển sổ lưu niệm để “lưu giữ lại những suy nghĩ riêng tư, rất thật và cũng rất quí đối với riêng ông” của hàng trăm tao nhân mặc khách thuộc nhiều thế hệ từ Nam chí Bắc.
Dĩ nhiên không thể thiếu những “nhà văn hóa” như: Huỳnh Minh, Nguyễn Văn Y, Nguyễn Q. Thắng. Để đáp tạ cái tình tri ngộ, thay vì viết mấy câu, tôi ghi vội bài thơ trong Sổ lưu niệm để tặng ông. Vì ghi vội nên có chỗ bôi xóa.Thiệt tình tôi không nhớ hết. Cũng may, nhờ sự tốt bụng của ái nữ nhà sưu khảo cho phép một cựu môn sinh của tôi sao chụp bài thơ ấy và gởi qua Canada cho tôi vào Tháng Ba 2022. Đó là bài thơ lịch sử tình bạn giữa ông và tôi. Bài thơ ấy như sau:
Với Nhất Tâm Nguyễn Bá Thế
Tôi đến nhà anh, trời đổ mưa
Xem qua tác phẩm*- sánh sao vừa!
Đời anh là cả đời văn nghiệp
Nên sính văn – mà cũng rất ưa thơ.
Mưa xuống thật nhiều, mưa thật lâu
Anh – tôi trao đổi thật tâm đầu
Xưa, anh sáng tác không ngừng nghỉ
Nay, phải làm gì cho mai sau
“Tâm sự Thế Nguyên, ai có thấu
Nỗi lòng Nguyễn Bá Thế, biết ai hay?
Còn non, còn nước, còn người,
Còn tôi mến mộ đời đời Nhất Tâm”**.
Cần Thơ, chiều 16.9.76
Trúc Lan (N.K.T.)
Vì sợ lẫn lộn trong đống “tàng thư”, ông Nguyễn Bá Thế đã ghi tên họ tác giả: Nguyễn Kiến Thiết.
* Xem qua tác phẩm: xem qua bản thảo hai bộ Từ điển TĐNVLSVN và TĐNVLSTQ.
**Bốn câu thơ cuối nầy được đưa vào tập thơ Một Kiếp Tằm Tơ của Nhất Tâm, xuất bản năm 1996, tr.54. Tên tác giả là Nguyễn Kiến Thiết (thay vì Trúc Lan).
Bẵng đi một dạo, tôi đến thăm ông rất nhiều lần (tính ra có tới 60 lần) trong giai đoạn 1980-1986. Vẫn bút đàm. Người viết, kẻ nói. Trong phần bút đàm, tôi có sáng tác một bài thơ thứ hai dành tặng ông trên một tờ giấy rời. Qua bao cuộc bể dâu, nay đã thất lạc. Tôi chỉ còn nhớ mang máng và soạn lại bài thơ nầy lấy tựa đề Với Bạn Văn – Tặng Nhất Tâm Nguyễn Bá Thế rồi đưa vào tập sách Những Trang Văn Đời Tôi do nhà Văn Học Mới Hoa Kỳ xuất bản năm 2021 (tr.127).
Hết bàn chuyện văn chương thế sự tới khoa học huyền bí. Để chia sớt gánh nặng áo cơm cùng người vợ tảo tần thời bao cấp, có lúc Nguyễn tiên sinh đành phải bắt chước Tản Đà kiếm sống bằng cách Hướng dẫn phương pháp chấm tử vi cũng như lấy lá số tử vi cho một số người quen biết- trong đó có tôi. Tôi còn giữ bốn Lá số tử vi của bốn đứa con trai. Mỗi lá số độ 4-5 trang luận đoán công phu, khoa học được viết tay bằng mực tím trên giấy tập học trò với nét chữ nghiêng đều đặn, có cả mấy câu chữ Hán. Đối với tôi, đó là một trong những kỷ niệm không quên. Mức độ chính xác của các lá số lên tới 80%.
Vốn là người yêu sách, học giả Nguyễn Bá Thế cũng có thú mua sách và thú chơi sách- đặc biệt loại sách biên khảo văn học. Trên trang đầu mỗi cuốn sách, ông đều ghi hai câu thơ ngũ ngôn: “Khi xem xin giữ kỹ; Nghĩ đến kẻ xem sau”; rồi ký tên cẩn thận.
Ngoài ra, ông còn trao tặng tôi bốn cuốn sách Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi do nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội -1976 với thủ bút và chữ ký theo thứ tự: “Trao về bạn Nguyễn Kiến Thiết kỷ niệm đời văn (ký tên) Nhất Tâm Nguyễn Bá Thế 28/10/1980”. Tôi vô cùng trân quý các cuốn sách ấy. Trải qua bao biến cố, tôi vẫn còn gìn giữ chúng coi như là kỷ vật thiêng liêng của tình bạn được kết nối qua mối duyên hàn mặc.
Tóm, Nguyễn Bá Thế với hơn 30 tác phẩm trong đó có hai bộ từ điển đồ sộ xứng đáng đạt danh hiệu học giả. Số phận dẫu có nghiệt ngã vẫn không dập tắt ngọn lửa nhiệt tình, tận tụy với nghiệp dĩ văn chương nơi ông- như con tằm vẫn cứ nhả tơ phục vụ cho đời liên tục trên 54 năm cầm bút, khởi đầu lúc 18 tuổi. Nhiều người quý mến ông về cách đối nhân xử thế, bởi sự tốt bụng và lạc quan yêu đời; nhưng cũng lấy làm tiếc vì ông quá tin người nên dễ bị thua thiệt trong cuộc sống.
Dựa vào nhận xét của GS Linh mục Thanh Lãng: “Nếu Nhất Linh đã làm đẹp mặt miền Bắc, thì ít ra Đông Hồ cũng làm đẹp mặt miền Nam”, tôi có thể nói thêm: “Chính Nguyễn Bá Thế- nhà văn hóa bị bỏ quên đã làm đẹp mặt Tây đô, nói riêng và miền Nam, nói chung”. Ông xứng đáng có một vị trí đặc biệt trong văn học sử Việt Nam. “Của César nên trả lại cho César”. Tôi nghĩ “Những gì của Nguyễn Bá Thế nên trả lại cho Nguyễn Bá Thế”.
Ngay cả nhà phê bình Nguyễn Vy Khanh cũng đã vô tình bỏ quên ông khi phân loại ba dòng văn học tại miền Nam (giai đoạn Văn Học Miền Nam 1954-1975), trong đó có một (dòng) thuần Nam- cụ thể là đã liệt kê 10 tác giả “từ Trương Vĩnh Ký qua Hồ Biểu Chánh đến Phi Vân, Bình-Nguyên Lộc, Sơn Nam, Vương Hồng Sển, Trang Thế Hy, Lê Xuyên, Phương Triều, Thanh Việt Thanh” (4) mà không nhắc tới nhà sưu khảo Nguyễn Bá Thế. Xin thắp nén hương lòng để tưởng nhớ đến người bạn văn vong niên, một đàn anh văn nghệ đã về miền tiên cảnh: Còn non, còn nước, còn người / Còn tôi mến mộ đời đời Nhất Tâm!
_______
Chú thích:
(1), (2) và (3) Lê Cần Thơ: Những Bạn Văn Nghệ Ngang Qua Đời Tôi (Tâm Bút). Thư Ấn Quán – 2010 & 2016. Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo một số bài viết của Lê Cần Thơ đăng trên: BNS Dân Ta số 100 xuất bản tại Houston, Texas, Hoa Kỳ (Bộ mới, năm thứ 14 ra ngày 11/03/1995 – 24/03/1995); Vĩnh Biệt Nhà Sưu Khảo Văn Học NGUYỄN BÁ THẾ, Dân Ta số 128 (ra ngày 13/04/1996 – 26/04/1996). Một lần nữa xin thành thật cám ơn văn hữu đồng hương Lê Cần Thơ rất nhiều.
(4) Nguyễn Vy Khanh: Văn Học Quốc Ngữ Thời Đầu & Miền Nam Lục Tỉnh. Nhân Ảnh Hoa Kỳ xuất bản năm 2021. tr.92.