Bặt một Cung Trầm

Tưởng niệm Thi sĩ Cung Trầm Tưởng
Cung Trầm Tưởng (ảnh: Uyên Nguyên)

Được tin Thi sĩ Cung Trầm Tưởng mất, tôi bỗng chợt thấy như mình vừa mất một cái gì thật quý báu, như …”Chực rớt cái gì dường thủy tinh…” (thơ Cung Trầm Tưởng) . Có một cái gì đang lóng lánh chợt tắt ngấm vào không gian. Thật vậy, chúng ta vừa mất đi một nhà thơ lớn, một vóc dáng thơ thật thân quen trong thế giới thơ ca mà tôi và nhiều người hằng yêu mến. 

Cung Trầm Tưởng cuối cùng rồi cũng giã từ nỗi buồn phố xá. Thôi không còn nghe tiếng bi ai, tiếng guốc gõ nhịp đêm hạ, tiếng xe lăn ngoài tha ma, mà tìm về ánh lửa ấm cúng chập chờn nào đó ở phía bên kia bờ bỉ ngạn. Mơ hồ đâu đó là tiếng rạn nứt trong như pha lê của một đêm say, tôi cảm được phút chia biệt phải đến, đành nói câu giã từ, ngừng giây bịn rịn. Ừ, ông phải lên đường, phải rời tay rồi, sương thu có rơi, heo may có lạnh, thì ánh đèn của gã dẫn đường cũng chấp chới đưa ông ra khỏi lòng phố thị để đi về nẻo ngoại ô, phía bên kia trời rồi. 

Xin thắp nén hương lòng tiễn ông đi về miền phương ngoại thật thong dong….

Mùa thu Paris đã im hơi, rượu đỏ đã đổ xuống, người em mắt nâu giờ xa ngái, trái sầu cũng rụng theo chiếc lá công viên ngoài kia theo tác giả bài thơ “Mùa thu Paris” bất hủ. Phạm Duy đã đưa “Mùa Thu Paris” và “Tương Phản- Bên Ni, Bên Nớ” của Cung Trầm Tưởng vào lòng muôn triệu người Việt, giờ ông đã có dịp gặp lại người nhả tơ lòng mình lên khuôn nhạc của ông, ở một cõi tịnh xa xôi nào đó. 

Chân dung Thi sĩ Cung Trầm Tưởng (Tranh hoạ sĩ Trần Thế Vĩnh)

Tình cờ làm sao, ông lại ra đi vào mùa thu, để lá vàng cùng ào ạt đổ xuống tiễn chân ông. Tôi nhớ những đêm mưa buồn nằm nghe Khánh Ly thổn thức bài “Bên Ni, Bên Nớ” mà thấy lòng mình chùng xuống hoang liêu đến vô cùng. Hình ảnh, âm thanh, ngôn từ, ngữ nghĩa của bài thơ tự do khó phổ này đã được Phạm Duy phổ nhạc, tôi thấy phải nói là hay tuyệt vời. Giọng hát Khánh Ly thật cao vút trong âm thanh của dàn nhạc thâu âm trước 1975 ngày ấy, đã thăng hoa được toàn vẹn bài thơ phổ nhạc rất sâu sắc và khó hát này. Có lẽ ít người nghe, biết bài hát này như bài “Mùa Thu Paris”, nhưng với tôi đây là bài hát gây cho tôi nhiều ấn tượng. 

Tương Phản

 Đêm chớm, ngày tàn 

Theo tiếng xe lăn về viễn phố 

Em ơi! 

Sương rơi 

Ngoài song đêm hạ 

Ôi buồn phố xá…

Hoang liêu về chết tha ma 

Tiếng chân gõ guốc: người xa vắng người 

Em có nghe dồn giã 

Bước ai vất vả 

Bóng ai chập chờn 

Hồn ai cô đơn 

Say sưa tìm về ấm cúng 

Em có nghe bi ai 

Tình ai ấp úng 

Thương ai lạc loài 

Ăn mày sáng lạn một ngày mai 

Đêm nay say đất lở 

Em có nghe rạn vỡ 

Ra muôn mảnh ly rơi 

Pha lê vạn chuỗi cười 

Bên nớ dạ thành khoe tráng lệ 

Trơ trẽn giai nhân phô loã thể 

Bên ni phố vãng lòng ngoại ô 

Em có nghe mơ hồ 

Bước ai thao thức 

Gõ nhịp hẹn hò 

In dài ngõ cụt 

Bóng ai giang hồ 

Bên nớ bên ni đêm lạnh cả 

Lạnh đêm mà chẳng lạnh vuông phòng 

Em ơi bên trong 

Dù chia ly đôi phút 

Đồng mang nhớ đèo mong 

Hai tâm hồn giam kín 

Bốn mắt xanh bịn rịn 

Anh ngồi làm thơ 

Anh ngồi bấm đốt con thơ ra đời 

Bên ngoài liếp ngỏ sương rơi 

Bên trong kín gió ấm ơi là tình!…

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành bài hát “Bên ni, Bên nớ.”

Cung Trầm Tưởng ở Luxembourg thời sáng tác bài thơ “Mùa thu Paris -1954” (Ảnh: SĐ6KQ Blog)

Nói về mình, Cung Trầm Tưởng có lần đã tâm sự, “Tôi sinh ra để làm thơ, mà là thơ buồn, nên tôi chọn tên mình là “Cung Trầm Tưởng”. Ông dùng nhiều thể thơ khác nhau để làm thơ nhưng có lẽ nhiều nhất là lục bát. Những bài thơ ông làm sau 1975, về quê hương, chiến tranh và tù đày trong thời gian 10 năm tù cải tạo, phần lớn là lục bát. Tuy nhiên những bài thơ khiến ông nổi tiếng lại những bài thơ tự do hay 4, 5, 7 chữ trong tập “Tình ca” mà ông làm trước 1975. Trong thơ tình ông tụng ca thiên chức của người nữ, trân quý, âu yếm, dịu ngọt và cảm thông. 

Thai Nghén

Da em thai nghén trái ươm xanh

Xót vị me chua đến ngái mình.

Qua chăm chút mớm giâm mầm mạ 

Chực rớt cái gì dường thủy tinh.

Trái hút nhựa san cành uốn trĩu 

Lay e có thể sẩy nhân giòn.

Dẫu ân cần dựng công trình đỡ, 

Sợ đổ dập vùi hồn nhú non.

Anh cúi hôn tay dài nõn ngón, 

Mắt hiền diệu ẩn ánh tà hôn. 

Anh ôm vóc dáng em mềm lụa, 

Gió thổi bay lên tóc ải bồng.

Anh giấu em trong cánh tay ngăn, 

Rào em cách biệt một không gian. 

Quanh em chỉ có hồ êm lặng,

Không thác và không nước lũ ngàn.

Mắt anh đèn bão thắp đêm thâu.

Em ạ, ngực đây em gối đầu.

Vai đây chỗ tựa hồn nao núng

Rồi lặng lẽ chờ phút trở đau.

Cứ ngủ đi em yên thấm mộng.

Đắp trên bụng mẹ yếu và thiêng

Tình anh che chở làm mền ấm.

Mang nặng đẻ đau ôi ! đức mẹ hiền.

Ấm ủ trong em huyền diệu lý

Âm dương giao hưởng, máu chan hoà.

Nay nằm ngậm rễ rau liền ruột,

Mai mở miệng chào tiếng khóc oa.

Mai nõn nà tươi phơi ánh sáng

Thiên nhiên kiến trúc một mô hình,

Một kỳ tích viết lên da dẻ

Sức sống bừng bừng nét hiển vinh.

— 1951

Là một người từng học trường Tây và du học tại Pháp, ông đọc thơ Charles Baudelaire và cảm phục người nữ Baudelairien để cảm tác mấy vần tụng ca như sau:

Em ướp trầm hương ngan ngát thánh

Ngồi trong đời cũng ngự ngôi trên

Em gần gũi cũng thiêng khôn kể

Dạy dỗ thi ca ý niệm đền

Bát quái thu trong lồng ngực nõn

Ngũ hành tụ lại bàn tay thon

Rốn em trái đất bày phương trận

Vũ trụ trồng ươm mô thức tròn

Là khởi sự cùng là kết thúc,

Đầu nguồn mạch nước, cuối dòng sông,

Em sinh sôi những áng cầu vồng

Trước Sách Ước đến sau cùng Lịch Sử.

Hình kỷ niệm cùng bằng hữu. Hàng đứng từ trái: NAG Nguyễn Văn Liêm, NAG Nick Út, Trịnh Thanh Thủy, NB Ông Như Ngọc, NAG Thái Đắc Nhã; Hàng ngồi: MC Trần Quốc Bảo, TS Cung Trầm Tưởng, Khách mời, NB Vũ Phương Dung. (Sept, 12, 2014)

Thơ tù ca nói về tù đày, chiến tranh và thân phận con người, ông viết rất nhiều và may mắn được bạn tù yêu thơ ông đã bảo mật, thuộc lòng hay giấu kỹ và mang giúp thơ ông ra hải ngoại. Nếu không, công an phát giác, ông chỉ còn là một nắm xương khô nằm ở một nơi đèo heo hút gió nào đó của Hoàng Liên Sơn. 

Bóng mẹ chiều thu

– Kính dâng Mẹ

Mẹ gầy guộc đến thăm con hấp tấp,

Quảy gánh về chiều sập ở non Tây.

Mưa gió quất lưng tre cong phần phật,

Bóng mẹ mờ lần khuất giữa mù mây.

Đất lầy lội, đường quê trơn khấp khểnh,

Mẹ long đong lận đận dáng lưng gù.

Mảnh trời xám kẽm gai rào bấu nát,

Mẹ đi rồi xao xác cả trời thu.

Mẹ là mẹ chú em nào hình sự ?

Dáng lưng gù làm nhớ đến mẹ tôi,

Mẹ nẻo xa mưa nắng ắt bồi hồi,

Ai đỡ mẹ đi nghiêng sầu goá bụa ?

Mưa gió quất lưng tre còng vất vả,

Vóc mai kia na ná nét hao mòn

Của mẹ ruột quằn đau cho tiếng khóc

Đến cuối đời lại chong bóng chờ con.

 

Con của mẹ giờ nằm trong ngục thất, 

Vận nước nghèo lại gặp phải thời xui, 

Bao thanh xuân hảo vọng bị chôn vùi, 

Đồng lúa mới chết non từng nhánh mạ

 

Trời Nam ấy huyên rơi vàng mấy lá ? 

Chiều nơi đây trời giá phủ sương đầy. 

Xin thử hỏi lòng con như tấc cỏ

Sao báo đền tình mẹ ngất toà mây.

 

Con xin hứa, lại một lần nữa hứa 

Nợ ơn đời sẽ trả trọn nay mai, 

Đỡ mẹ đi thư thái nốt đường dài

Để có một lần vì con mẹ ngẩng mặt.

— Trại tù Hoà Bình 1978

Trong chặng đường dài 90 năm tại thế, ông để lại rất nhiều sáng tác nhất là sau năm 1975. Ông đã gom tất cả lại trong cuốn “Một hành trình thơ 1948-2018”, gồm 7 thi tập. Bạn đọc yêu thơ ông có thể tìm đọc cuốn sách này trên trang web của Việt Tide. 

Tiểu sử ngắn

Cung Trầm Tưởng, tên thật là Cung Thức Cần, sinh tại Hà Nội. (1932-2022) Năm 15 tuổi bắt đầu làm thơ, và có tập thơ đầu tay tên là Sóng đầu dòng. Học trung học tại trường Chasseloup Laubat, Sài Gòn. Du học tại Pháp, Trường Kỹ sư không quân ở Salon-de-Provence. Tốt nghiệp trở về nước phục vụ trong binh chủng Không quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, với cấp bậc cuối cùng là Trung tá. Dưới chế độ cộng sản, ông bị bắt đưa đi cải tạo 10 năm trong tám trại giam và thả về với thêm ba năm quản chế. 

Định cư tại Hoa Kỳ, tốt nghiệp Cao Học Khí Tượng tại Saint Louis University, Hoa Kỳ và Quản Trị An Ninh Quốc Gia và Tài Nguyên Quốc Phòng Hoa Kỳ- hậu đại học.

Hai bài thơ của ông là “Mùa thu Paris” và “Vô đề” (thơ trường thiên) xuất hiện trong tuyển tập Đất đứng của nhóm Quan Điểm (gồm Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng) đã làm người đọc chú ý. Ông chủ trương tờ Văn nghệ mới và cộng tác thường xuyên cho các tạp chí Sáng tạo, Hiện đại, Nghệ thuật, Văn, Khởi hành… 

Phạm Duy đã phổ nhạc một số bài thơ của ông, đó là những bài “Mùa thu Paris”, “Chưa bao giờ buồn thế” (Phạm Duy gộp lại và lấy tên là “Tiễn em”), “Bên ni bên nớ”, “Khoác kín” (Phạm Duy lấy tên “Chiều đông”), “Kiếp sau”, “Về đây”… Tổng cộng trong 13 bài thơ trong tập Tình ca của ông thì 6 bài Phạm Duy chọn phổ nhạc.

Tác phẩm của Cung Trầm Tưởng đã in: 

  • Tình ca (Sài Gòn: Công đàn, 1959)
  • Lục bát Cung Trầm Tưởng (Sài Gòn: Con đuông, 1970)
  • Lời viết hai tay thơ tù cải tạo (Bonn: Imn, 1994)
  • Bài ca níu quan tài thơ tù cải tạo (tác giả tự xuất bản, Minnesota, Hoa Kỳ, 2001)
  • Một hành trình thơ (Falls Church, Virginia: Tiếng Quê Hương, 2012)

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: