Qua vài câu chuyện với bạn bè, tôi lần tìm trong trí nhớ về những cây gòn, loại cây cao vút có trái dài từng được trồng nhiều ở thành phố Sài Gòn.
Cây gòn đến mùa thì ra trái. Sau đó trái già đi, khô dần rồi bung vỏ, rụng trắng mặt đất dưới gốc hoặc thả bông bay đầy trời. Nhặt trái gòn khô về, lấy bông bên trong để dùng độn gối nằm, khi lấy phải cẩn thận dùng khăn bịt mũi vì bông gòn bay vào mũi khá khó chịu. Riêng hột gòn có thể đem đi rang với muối để ăn.
Chỉ cần rang một lát là có mùi thơm toả ra, có vị vừa béo vừa mằn mặn. Tôi vẫn nhớ món hột gòn rang mà anh Cường trong xóm mỗi lần đi lính về phép kiếm đâu ra để rang cho đám con nít trong xóm ăn. Đó là món ngon dân dã mà bây giờ con nít không ăn, vì không còn cây gòn và bây giờ thực phẩm có nhiều thứ để chọn lựa.
Hồi tôi còn nhỏ trong xóm sau nhà thờ Nam trên đường Trương Tấn Bửu (nay là Trần Huy Liệu) có ba cây gòn đứng thẳng tắp bên hông cư xá Nha Trước Bạ (cổng nhìn ra hẻm 109 Hoàng Văn Thụ). Dưới gốc mấy cây gòn râm mát, đám con nít chơi đùa, người lớn đứng nghỉ mệt tránh nắng.
Sau này, người dân trong xóm mang rác ra đổ dưới gốc mấy cây gòn, chỗ đó dần biến thành bãi rác. Sau năm 1975, mấy cây gòn bị bứng đi lúc nào không hay. Vài người đi xa về ngơ ngác hỏi cây gòn nay đâu mất rồi. Đối với họ, bóng mát cây gòn là chỗ tụ tập lý tưởng nhất để chuyện trò, chơi đùa, cũng là nơi trai gái hẹn hò nhau tâm sự những năm tuổi trẻ.
Phía sau nhà tôi, chỗ miếng đất hiện nay là bệnh viện Sài Gòn Ito trên đường Nguyễn Trọng Tuyển cách nay hơn hai mươi năm cũng có vài ba cây gòn cao vút đứng cạnh một dãy chuồng ngựa. Thỉnh thoảng, tôi thấy mấy con ngựa đứng dưới góc gòn lúc lắc đầu trông như cảnh trong phim cao bồi Mỹ.
Có lần đứng trên lầu thượng nhìn mấy cây gòn trong buổi sáng mát lạnh có nắng vàng gần Tết, tôi cao hứng hát: “Ngoài ấy trời xuân lạnh, rét căm lạnh cỏ hoa, em nhìn mây không cánh, bay về phương trời xa… Một trời hoa gạo đỏ, và mưa nắng hai mùa” (Ca khúc Tâm sự gửi về đâu của Phạm Duy phổ thơ Lê Minh Ngọc).
Tất nhiên, cây gòn không phải cây gạo ngoài Bắc mà tôi đã thấy trên đường đi chùa Hương, đó chỉ là sự liên tưởng.
Khoảng thời gian đó, có mấy cây gòn cao vút xúm xít nhau đứng ngay khúc cua trên đường Phan Đăng Lưu, chỗ trường tiểu học Cao Bá Quát. Nghe nói trước đây còn một cây gòn sót lại trong hẻm hãng nhôm Hiệp Lợi trên đường Võ Di Nguy (nay là Phan Đình Phùng), dấu tích hàng gòn ngày xưa trong hẻm từng có tên là hẻm Hàng Gòn. Phía dưới chân cầu Sắt Đa Kao phía quận Nhứt cũng có mấy căn gòn.
Nhưng toàn bộ những cây gòn tôi biết trên đây, không có cây nào tồn tại đến giờ.
Có lần, anh bạn già cùng sống trong khu phố của tôi làm nghề lái xe tỏ ra ngạc nhiên: “Có hôm tui đem xe đi rửa trên đường Nguyễn Thái Bình ngoài quận Nhứt. Mấy chú nhỏ rửa xe bất giác hỏi tui: Chú ơi, hai cái cây bên kia là cây gì mà trái của nó rớt xuống đường ra nhựa đen thùi lùi?. Tui dòm qua rồi ngạc nhiên.
Ồ, loại cây này ngày xưa chỉ có ở xứ “bòn vàng” miệt Tân Châu thôi chứ, tưởng chừng đã tuyệt chủng mà nay lại xuất hiện ở Sài Gòn. Cây mặc nưa chớ đâu.”. Anh bất ngờ khi tôi bảo trên đường Huỳnh Tịnh Của (tên cũ là Monceaux) hồi xưa có trồng toàn cây mặc nưa dùng để nhuộm vải nói trên.
Người kể cho biết trái mặc nưa lúc còn sống màu xanh giống như trái táo, còn lúc chín thì màu đen. Khi rớt xuống đất, người đi bộ đạp lên làm đen cả lề đường rất nhơ nhớp. Trong ruột trái mặc nưa có nhiều hột giống như hột gạo. Ăn bùi bùi, béo béo, deo dẻo. Học sinh trường Tân Định thời của ông ấy thường lượm đem đập lấy hột ăn.
Một loại cây khác, phượng vỹ, có người gọi là cây điệp tây hay đơn giản là cây điệp, là loại cây dễ nhận diện trong đôi mắt thiếu hiểu biết về cây xanh của tôi. Trong bài viết “Sài Gòn” của nhà văn Léon Werth, cây được mô tả: “… những chùm phượng màu đỏ lựu tầng tầng lớp lớp. Loài hoa rực rỡ ấy ở châu Âu thường trồng trong nhà kính hoặc các vườn thực vật nhưng ở đây, chúng nở tưng bừng trên các ngọn cây…”. Ông thốt lên điều đó khi cảm nhận “không khí nặng nề và dính dáp” ở đất Sài Gòn đầu thế kỷ 20 mà ông có cảm tưởng giống như thị trấn Passy ở Pháp.
Nghe tôi nhắc đến loài cây này, chú Phú 86 tuổi, người có cả kho ký ức về Sài Gòn xưa cao hứng kể: “Hồi ấy khi chiến tranh tạm lắng (tức khoảng năm 1946-1947), sau khi hồi cư từ Gò Công về lại Sài Gòn, gia đình mẹ con tôi chẳng còn tài sản gì đành về thuê nhà ở ngã ba Cây Thị, thuộc Xóm Gà phía Gò Vấp.
Từ ngã ba Cây Thị ra ngã năm Chuồng Chó chỉ có duy nhứt một con lộ. Hai bên đường là hai hàng cây điệp (tiếng Bắc gọi là phượng vỹ). Hè về, điệp nở bông đỏ rực con đường. Trước một cổng chùa trên đường đó, hàng điệp cao to. Trái điệp hình dẹp, màu đen, to và dài. Tụi nhỏ chúng tôi hay đi lượm trái rồi đập dập, nút chất ngọt từ trái. Có một điều rất lạ là hồi ấy những cây điệp này thường có những con bò cạp, to đùng, màu xanh sống trên cây, thỉnh thoảng rớt xuống gốc, hễ thấy người lại gần thì cong đuôi lên, tự bảo vệ. Nếu chẳng may bị con bò cạp này chích cho một mũi thì phải đi cấp cứu ngay vì rất nhức nhối”.
Cây phượng vỹ ít khi được trồng đơn lẻ, mà thường trồng dài trên suốt con đường. Khi nở bông, hàng cây khiến cả chiều dài đường tràn ngập màu đỏ. Vì tàn cây rất rộng nên coi như cả một tấm thảm màu đỏ, báo tin một mùa hè của tuổi thơ học đường. Trong khuôn viên các trường Pétrus Ký, Gia Long, Chasseloup Laubat, Marie Curie đều có cây này.
Đó là một số ít cây trong thành phố mà tôi biết và có thể nhận diện khi thấy từ xa. Nhưng còn bao nhiêu cây tồn tại quanh chúng ta nhưng tù mù trong vốn hiểu biết nhỏ nhoi về chúng? Cây sao đen trên đường Nam kỳ Khởi Nghĩa, cây muồng hoa vàng trên đường Điện Biên Phủ, cây tếch trên đường Kỳ Đồng, cây dầu con rái trên đường Hồ Xuân Hương, cây lâm vồ góc đường Nguyễn Đình Chiểu – Cách Mạng Tháng Tám, cây lim sét trên đường Nguyễn Kiệm, cây gõ mật trên đường Nguyễn Đình Chiểu, cây me keo trên đường Hoàng Văn Thụ và cây mò cua trên đường Nguyễn Thị Minh Khai… và bao nhiêu thứ cây khác, đang tồn tại và hoặc đã được thay thế.
Cây xanh đi vào văn thơ nhiều biết bao nhiêu. Có lẽ vì các nhà thơ nhạy cảm nên chú ý cây cỏ nhiều hơn mọi người và đó là cảm hứng không nhỏ của họ. Đọc một đoản văn của nhà thơ Đông Hồ viết về ngôi trường Văn Khoa cơ sở cũ – khi ông đang dạy học ở đó – hiển hiện một thời Sài Gòn mượt mà với nhiều cây xanh:
“Vuông đất này, chỗ cao nhất là chỗ góc đường Gia Long và Công Lý, chỗ thấp nhất là chỗ góc đường Nguyễn Trung Trực và Lê Thánh Tôn. Đứng trước phòng B4, tức là chỗ cao nhất mà nhìn xuống, có cảm giác như đứng trên ngọn đồi con nhìn xuống cánh bình nguyên, cánh thung lũng cũ nào quen quen. Các người sinh viên nói với tôi rằng nhờ có cuộc đất nghiêng dốc đó mà tiện lợi cho những buổi liên hoan, trình diễn văn nghệ. Ban tổ chức khỏi cần dựng lên bục gỗ… Chung quanh ven đồi, mất hàng cây điệp, lớp trong lớp ngoài, độ này đang nở thịnh, lớp chi chít trên cành, lớp rải rác dưới đất, gây nên cảnh tượng “thiên nữ tán hoa” phấp phới tưng bừng như nhìn vào đám sĩ tử nô nức, hớn hở vào trường thi.”
Nhà văn Nguyễn Sỹ Tế từng ví hàng cây hai bên đường là những hàng cột của thánh đường mênh mông. Phải là người yêu thành phố Sài Gòn và cây xanh mới nhìn ra được hình ảnh cao đẹp đó.
Trong bài thơ “Khúc bi thương cho những quán cà phê lộ thiên”, nhà thơ Hoàng Ngọc Biên viết: “Đừng gửi cho ta nữa, những cành cây khô rụng đầy, mặt bàn loang lổ, những lá me li ti, mướt một màu xanh non rải trên bình trà, nguội tháng năm …
Những quán xá lộ thiên dưới tàng cây và những lá cây rơi trên mặt bàn, có phải từng mang đến cho chúng ta cảm giác dễ chịu không vậy, vào những buổi sáng giáp Tết quây quần uống cà phê hay ở một buổi tiệc sân vườn đêm muà hè ở thành phố này trong hơi ấm bạn bè? Nó đã là nỗi nhớ của người đi xa, thành lời van xin: “… đừng gửi cho ta nữa, những lá me li ti, mướt một màu lá non trên bình trà…”.
Có lúc tôi nghĩ cây xanh trong thành phố đối với chúng ta giống như những láng giếng ngày nay. Họ sống cùng chúng cư hay cùng con hẻm với chúng ta, biết có ở đó nhưng không mấy khi chạm mặt nhau, có khi không biết tên của nhau và nhiều lần đi qua nhau một cách hững hờ. Đến lúc chợt nhớ lại, họ đã dần biến mất khỏi cuộc đời chúng ta.
Dù sao, những người láng giềng không ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống chúng ta, trong khi cây xanh chung quanh lại cung cấp không khí sạch, bóng mát và cả năng lượng tích cực mỗi ngày nhưng cuộc sống tất bật đã biến chúng thành vô hình trong sự quan tâm của chúng ta. Nhiều cây trong số đó đã được trồng hơn trăm năm, già cỗi, có thể đổ gãy bất cứ lúc nào, còn số cây trẻ được trồng để thay thế chúng quá ít, không đủ cho thế hệ sau là con cháu chúng ta có thể tiếp nhận những lợi ích của chúng như chúng ta từng được nhận từ số cây trồng cả thế kỷ trước đó.
Tôi yêu cuộc sống thành phố nhưng chỉ có thể yêu những toà nhà bê tông cửa kính và những con đường nhựa nếu nó nằm xen kẽ giữa những hàng cây, công viên lớn nhỏ xanh mướt càng nhiều càng tốt, để được che nắng mùa hè và thấy chúng thả gió, tung lá khắp nơi trong mùa mưa. Nếu không, đó chỉ là những mảng xám vô hồn đè xuống cuộc đời.