Đầu năm 2022, tôi viết bài Bệnh Tưởng, Hài Kịch & Cuộc Sống. Thấm thoát đã hai năm qua, các ông bạn già “khoái” tôi viết về chuyện vãn, vô thưởng vô phạt vì hiện nay căn bệnh nầy nhan nhản xuất hiện từ trong nước ra hải ngoại. Để đáp lễ vào dịp cuối năm nên lai rai chuyện đời.
Tóm lược bài viết về Bệnh Tưởng, Hài Kịch và Cuộc Sống trước đây:
Trong mục Tạp Chí Việt Nam của RFI ngày 7/2/2022 đăng bài: Nguyễn Văn Vĩnh dịch “Bệnh Tưởng” của Molière mở đường khai sinh nền kịch nghệ (kịch nói, thoại kịch) Việt Nam.
Argan, nhân vật chính, luôn tự huyễn với bản thân phải đau ốm chứ không muốn khỏe mạnh, điều nầy cũng là cơ hội cho hai ông thầy thuốc bảo thủ “dởm” (Purgon, Diafoirus) vẽ vời ra các thứ bệnh để điều trị và móc hầu bao…
Hài kịch Le Malade Imaginaire (Bệnh Tưởng – Người Bệnh Tưởng) của văn hào Pháp Molière (1662-1673) được học giả Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) dịch là Bệnh Tưởng, ấn hành năm 1920 tại Hà Nội, đã được diễn tại Hà Nội ngày 25/4/1920. Năm 2022, văn hào Pháp Molière tròn 400 tuổi và cũng đánh dấu 102 năm vở kịch nói đầu tiên được diễn tại Việt Nam…
Bệnh Tưởng (Le Malade Imaginaire) là một trong bốn tác phẩm của Molière được học giả Nguyễn Văn Vĩnh dịch, cùng với Trưởng Giả Học Làm Sang (Le Bourgeois Gentilhomme), Người Biển Lận (L’Avare), Giả Đạo Đức (Tartuffe) và được đăng trên Đông Dương tạp chí. Sau đó, bốn tác phẩm này được in trong “Série A” của bộ sưu tập Phổ Thông Giáo Khoa Thư Xã, xuất bản tại Sài Gòn từ năm 1916, dưới sự chỉ đạo của François-Henri Schneider để cổ vũ giáo dục và sau này, trong bộ sưu tập Danh Văn Nước Pháp dịch Nôm, phụ bản của báo Trung Bắc tân văn trong những năm 1920-1921 tại Hà Nội…
Hài kịch Bệnh Tưởng là tác phẩm cuối cùng của Molière. Hài kịch này phác họa hình ảnh những gì xảy ra trong các gia đình vào thời điểm đó. Molière mỉa mai những định kiến phổ biến nhất và lâu đời nhất của xã hội, ở đó có hai điều mà người ta đánh lừa nhất, đó là sợ chết và yêu cuộc sống! Molière không phê phán những người làm nghề y, nhưng phê phán bác sĩ (lang băm) vì sự ngu dốt và sự man rợ của họ.
Vở kịch xoay quanh câu chuyện nhân vật Argan giàu có trong nghề y học, kết hôn với góa phụ Beline. Bề ngoài bà Beline tỏ ra tận tình chăm sóc chu đáo chồng, nhưng trong lòng thực tế chỉ mong cái chết của chồng để được thừa hưởng gia tài.
Argan tin rằng bản thân khỏe mạnh nhưng giả bệnh rồi bị phát hiện đang bị bệnh nặng và cố tình che dấu bệnh tình. Purgon, đồng nghiệp của Argan cho biết Argan sẽ chết nếu ba ngày mà không được anh đến thăm. Argan nổi cơn thịnh nộ và cảnh báo không dùng những biện pháp chữa trị bá vơ của y học. Tuy nhiên, Argan là người ngoan ngoãn nhất trong số những người bị bệnh.
Để chống lại căn bệnh quái ác, Argan muốn gả con gái của mình là Angélique cho Thomas Diafoirus, con trai bác sĩ của Purgon, chấp thuận cuộc tình… Angélique tinh ý tìm thấy người giúp việc đắc lực của mình, Toinette, không ngại đối mặt với cơn thịnh nộ của Argan và thậm chí sự phản đối cuộc hôn nhân của Beline. Toinette đánh lừa, cải trang thành bác sĩ với nhiều lời khuyên mỉa mai và chế giễu cho nghề nghiệp, ngay cả lời khuyên Argan chết! Argan sau đó giả chết để thử lòng mọi người.
Angélique, sau này được Toinette gọi, bày tỏ nỗi buồn chân thành trước cái chết của cha cô, người đã dừng cuộc chơi của mình ngay lập tức và chấp nhận kết hợp với Cléante, với điều kiện ông trở thành bác sĩ. Những ngày cuối cùng rời bệnh viện trở về nhà, Beline hàng giờ ở cạnh giường cho đến khi anh ta chết.
Tuy là người hầu Toinette nhưng là “nhân vật” chính trong vở hài kịch vì cô ta chứng kiến những gì xảy ra “hỉ, nộ, ái ố” từ đầu đến cuối…
Trước năm 1975 ở miền Nam Việt Nam đã tái bản nhiều tác phẩm và sách dịch, hình như không tái bản vở hài kịch Bệnh Tưởng do cụ Nguyễn Văn Vĩnh dịch nên ít người được biết đến. Và đầu năm Nhâm Dần 2022, đọc bài viết trên trang web của RFI mới biết.
Cụ Nguyễn Văn Vĩnh là vị Chủ bút đầu tiên tờ Đăng Cổ Tùng Báo (Đông Kinh Nghĩa Thục) xuất bản bằng chữ Quốc Ngữ ở Bắc kỳ năm 1907. Lục Tỉnh Tân Văn (1910), Đông Dương tạp chí (1913), Trung Bắc Tân Văn (1915, nhật báo đầu tiên)… Người đầu tiên dịch Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa từ chữ Hán ra chữ Quốc Ngữ năm 1909. Người đầu tiên dịch các tác phẩm văn học cổ điển Pháp của Victor Hugo, Honoré de Balzac, Alexandre Dumas, Molière, La Fontaine… ra tiếng Việt đã đã đăng trên Đông Dương tạp chí và đã ấn hành, trong đó có Thơ Ngụ Ngôn La Fontaine Diễn Nôm (Les Fables de La Fontaine, 44 truyện) phổ biến rộng rãi, được trích đăng rất nhiều. Đặc biệt với Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du dịch ra tiếng Pháp.
Trở lại đề tài ‘Tưởng’, ‘Bệnh Tưởng’… Trên Facebook của nhà văn Khánh Trường đã post những dòng vào ngày 29/1/2022:
“Tưởng”!
Năm nay tôi 75 tuổi, 14 cháu nội ngoại, bệnh đầy mình, liệt 2/3 thân thể; Tay yếu và vụng không cầm nổi ly cối nửa lít đầy nước; Chân đứng không vững phải ngồi xe lăn; Tuần 3 ngày lọc máu; Ngày nuốt 18 viên thuốc; Có lúc sức khỏe suy sụp đến nỗi một tháng thăm viếng bệnh viện năm ba lần. Nói chung, tôi là điển hình đại diện cho một cái xác còn thở, vô ích và gây tốn kém phiền hà cho người thân và xã hội. Tự kiểm trên tuyệt đối không để thân thân trách phận, mà chỉ để nhìn lại mình, khách quan hơn.
Từ thời còn trẻ cho mãi non một năm trước, tôi vẫn tưởng mình ghê gớm lắm!…
Vài tháng nay tôi bỗng thấy cái “tưởng” của mình mới nực cười làm sao!”…
Bài thơ Mục Hạ Vô Nhân của nhà thơ Nguyễn Khuyến ví von với tình trai gái:
“Chúng anh đây mục hạ vô nhân
Nghe em nhan sắc lòng xuân anh não nùng.
Dù em má phấn chỉ hồng
Dửng dừng dưng anh chẳng thèm trông làm gì”.
Trong Tâm Lý Học đề cập đến Mặc Cảm Tự Ti (Inferiority Complex) và Mặc Cảm Tự Tôn (Superiority Complex) cũng là “Bệnh Tưởng”.
Hội chứng mặc cảm của nhà tâm lý học Áo Alfred Adler, năm 1907, bàn về hội chứng này lần đầu tiên, và sau đó được giảng dạy trong môn Tâm Lý Học. Người mang mặc cảm tự ti, cảm thấy bản thân nhu nhược, không can đảm dấn thân trong cuộc sống… nên tự rước lấy nỗi đau và buồn chán với tha nhân…
Người mang mặc cảm tự tôn với “cái tôi và cái tôi” trên hết, tự cao tự đại, kiêu ngạo, huênh hoang tự đắc, khoác lác… vì vậy ít được thiện cảm. Câu nói “Cái tôi đáng ghét” (Le Moi est haissable) của triết gia Blaise Pascal sau nầy thường được nhiều người nhắc đến.
Câu nói của Chesterfield “Khiêm nhường là đức tính tuyệt vời và là một trong những đức tính chân chính nhất”. Và trong cuộc sống, câu nói của Henri Frederic Amiel “Khó mà tôn trọng người khác nếu bản thân không tự khiêm nhường” rất chí lý…
Trở lại với hài kịch Bệnh Tưởng, đã là bệnh thì đừng nên rước vào thân nên tránh được dường nào thì hay dường nấy.
Nhà văn Anh George Bernard Shaw nói rằng: “Làm người thì đừng bao giờ quá đề cao bản thân mình”. Người xưa cho rằng “Nước càng sâu càng tĩnh, người càng hiểu biết càng khiêm nhường” vì vậy trong quá khứ đã có những bậc vỹ nhân, thức giả, những thiên tài trong các lãnh vực… nhưng rất khiêm nhường, được mọi người tôn vinh và lưu truyền lại hậu thế. Trong mục Văn Hóa của tờ Đại Kỷ Nguyên lấy câu nói nầy làm tựa đề bài viết.
Sau khi dẫn chứng vài nhân vật nổi danh trong văn học và lịch sử trong quá khứ, nhận xét về sự khiêm nhường:
“Kỳ thực, người tự cao tự đại, kiêu ngạo với người khác lại chính là người yếu đuối khôn cùng. Với những người có tâm hồn yếu nhược, thì kiêu ngạo, tự cao chính là để khỏa lấp chỗ trống trong lòng, họ sợ người khác coi thường bản thân mình. Ngược lại, khiêm nhường lại xuất phát từ sự tự tin của nội tâm, không màng hư danh, lợi ảo của người đời. Người chân chính có đại trí đại huệ, xưa nay vẫn luôn khiêm nhường, tôn kính vạn vật…
Khiêm nhường (khiêm nhượng) ở đây không có nghĩa là bạn phải hạ thấp giá trị bản thân mình, buông bỏ đi ý chí tiến thủ của mình, mà là ngược lại. Một người càng có ý chí tiến thủ thì càng hiểu được giá trị của sự tu dưỡng tâm tính, hiểu được giá trị của sự khiêm nhường. Khi gặp cảnh đường chật, ngõ hẹp nhường người một bước, có thể vì người mà suy nghĩ, thì đó lại chính là cảnh giới của người nhìn xa trông rộng.
Khiêm nhường cũng là cách giúp bản thân thoát khỏi dục vọng danh lợi và tham lam. Mà một người có thể đứng ngoài danh lợi, khi đó họ sẽ có thể nhìn được càng cao, hiểu được rộng hơn những người khác. Người chịu cúi thấp mình hơn người khác không hẳn đã là người chịu thiệt. Họ là những người hiểu rõ bản thân mình, là người biết cách dựa vào chính thực lực của mình mà đi lên. Họ hiểu rõ, làm người thì càng ung dung điềm đạm sẽ càng được đi xa thêm…
Người có thể giữ được sự khiêm nhường, ôn hậu, điềm tĩnh cũng sẽ giống như đại địa, vĩnh viễn coi mình thấp hơn người khác, là bàn đạp cho người khác phát triển nhưng lại không có ai dám phủ nhận sự vĩ đại của họ. Người có thể giữ được sự khiêm nhường cũng như biển lớn, có thể dung nạp trăm sông nghìn suối, bất luận nước trong hay đục. Nước chịu mình ở chỗ thấp mà không tranh giành nhưng lại có thể dung nạp được vạn vật, nuôi dưỡng vạn vật. Biển lớn chịu mình thấp hơn sông suối nhưng nào ai dám phủ nhận sự thâm sâu của biển?…
Khi chúng ta không ngừng cố gắng thể hiện bản thân, mong mỏi chứng minh thân phận của mình với người khác, thì các bậc cao nhân đại trí lại không ngừng nỗ lực làm phai mờ đi thân phận của mình.
Trong phép ứng xử, nếu chúng ta có thể lùi một bước mà nhượng bộ thì sẽ thấy được một cảnh giới khác. Không ngạo mạn chính là khiêm, lùi một bước chính là khiêm, nói thêm một lời cảm ơn, xin lỗi cũng chính là khiêm vậy…
Vậy nên, đừng bao giờ tự mãn, kiêu căng, cũng đừng bao giờ tự cho mình là bậc cao nhân số một. Hãy nuôi dưỡng cho mình một sự cao quý từ chính phẩm chất khiêm nhường và đẩy lùi sự hèn mọn.
Có câu “Nước càng sâu càng tĩnh, người càng hiểu biết nhiều càng khiêm nhường” cũng chính là ý này vậy…”
Thi hào Nguyễn Du với tác phẩm Truyện Kiều để lại trong Văn Đàn Việt Nam áng thơ bất hủ nhưng hai câu cuối của thi phẩm nầy nói lên sự khiêm nhường:
“Lời quê góp nhặt dông dài,
Mua vui cũng được một vài trống canh.”
Sau hai năm định cư ở California, tác phẩm Người Đi Trên Mây của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng (1950-2014) ấn hành năm 1987. Trong tác phẩm nầy với nhân vật thầy giáo Trần Lâm Thăng, có lẽ hình ảnh ở góc cạnh nào đó của tác giả vào thời trai trẻ. Nhà giáo sáng giá, ngoại giao rộng quen biết nhiều với giới văn nghệ sĩ ở Sài Gòn… Thế nhưng từng đám mây vần vũ xô đẩy những mối tình chàng từ chỗ dung thân ở biệt thự xuống khu ổ chuột tồi tàn nhưng được tự do, không bị ràng buộc áp lực phi lý trong tình trường.
Với tựa đề “Người Đi Trên Mây” trong tác phẩm không liên quan đến “Bệnh Tưởng” nhưng trở thành bốn chữ ví von khi nói đến ai mang nặng mặc cảm tự tôn. Nếu người nào đó nổ sảng cũng là nhân vật “Người Đi Trên Mây”.
Nhà văn Kim Dung (1924-2018) qua các tiểu thuyết võ hiệp mô tả các giáo chủ trong tà giáo lúc nào cũng xưng hùng xưng bá “Nhất thống thiên hạ, trừng trị thiên thu” nhưng rồi tàn tạ cuối đời. Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ có Giáo chủ Nhật Nguyệt Thần Giáo đi đến đâu có đám thuộc hạ tán dương “Thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ” từ Nhậm Ngã Hành đến Đông Phương Bất Bại cuối cùng cũng bị bại thảm thương.
Trong Lộc Đỉnh Ký có Hồng An Thông, Giáo Chủ Thần Long Giáo được bọn lâu la xưng tụng “Hồng giáo chủ vạn năm không già, phúc tiên mãi hưởng, thọ sánh ngang trời!”. “Hồng giáo chủ thần thông quảng đại, giáo phái ta đã đánh là thắng, kẻ địch mạnh mấy, vững mấy cũng phải sụp đổ” (Kim Dung). Nhưng Tô Thuyên (vợ Hồng An Thông) về sau bị gã họ Vi lừa làm cho có thai và đi theo y, được giữ địa vị chính thất, chị cả trong bảy vị phu nhân. Hồng An Thông với tham vọng bá chủ võ lâm nên tận lực luyện võ công nhưng già yếu, tinh lực kém sút, tưởng thành thần thành tiên, cuối cùng lại mất tính người bình thường.
Trong Thiên Long Bát Bộ có phái Tiêu Dao với bốn cao thủ nổi tiếng nên tự lập môn phái riêng như Tô Tinh Hà lập ra Lung Á Môn; Đinh Xuân Thu lập ra phái Tinh Túc; Thiên Sơn Đồng Lão lập ra Linh Thứu Cung, thống lĩnh 36 động và 72 đảo; Lý Thu Thủy lập ra Tây Hạ Nhất Phẩm Đường… xưng hùng xưng bá chốn võ lâm.
Kết cuộc Tô Tinh Hà bị đệ tử là Đinh Xuân Thu ám toán, khiến cơ thể tàn phế, phải ẩn mình trong mật thất. Đinh Xuân Thu sau bị Hư Trúc cấy Sinh Tử Phù vào người, phải chịu quản thúc ở Thiếu Lâm Tự. Thiên Sơn Đồng Lão tu luyện Duy Ngã Độc Tôn Công, môn Sinh Tử Phù… Đồng Lão chết vì kiệt sức sau khi quyết đấu với Lý Thu Thủy dưới hầm băng Tây Hạ.
Trong chánh phái cũng có các nhân vật điển hình như:
Trác Bất Phàm trong Thiên Long Bát Bộ, đệ tử của phái Nhất Tự Tuệ Kiếm. Trác Bất Phàm có được quyển kiếm phổ, luyện xong tự xưng là Thần Kiếm, cho mình là thiên hạ vô địch rồi đi tìm Thiên Sơn Đồng Lão trả thù nhưng trên đường bị Hư Trúc đánh bại trong nháy mắt.
Đinh Mẫn Quân, sư tỷ của Kỷ Hiểu Phù và Chu Chỉ Nhược trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký. Ngoại hiệu Độc Thủ Vô Diêm, luôn ghen tỵ và ngấm ngầm ám hại hai sư muội bởi họ xinh đẹp hơn, võ công giỏi hơn và được sư phụ yêu thích hơn. Sau vì ăn trộm Cửu Âm Chân Kinh của Chu Chỉ Nhược mà bị Tống Thanh Thư đánh chết.
Cũng trong Ỷ Thiên Đồ Long, Chu Tử Liễu, ngoại hiệu Kinh Thiên Nhất Bút, một trong những đệ tử của Nhất Đăng Đại Sư. Với lòng tham chiếm đoạt Đồ Long Đao nên Kinh Thiên Nhất Bút chẳng từ bất kỳ thủ đoạn nào, cuối cùng nhốt sống trong một sơn động,
Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, nhân vật Vương Nguyên Bá, ngoại hiệu Kim Đao Vô Địch. Chưởng môn phái Kim Đao bố vợ của Lâm Chấn Nam (tổng tiêu đầu của Phước Oai tiêu cục, truyền nhân của dòng họ mang bí kíp kiếm thuật Tịch Tà kiếm phổ) và là ông ngoại của Lâm Bình Chi. Mang ngoại hiệu lẫy lừng là vậy nhưng Vương Nguyên Bá dường như hữu danh vô thực. Ngay khi cả nhà con gái bị giết hại, ông ta cũng không dám tìm Du Thương Hải để báo thù…
Thành ngữ ta có câu “Thùng rỗng kêu to” nên trong cuộc sống nếu bắt gặp loại thùng rỗng nầy cũng đừng bận tâm, tranh cãi… Theo lời khuyên trong Tứ Vô Lượng (Từ Vô Lượng, Bi Vô Lượng, Hỷ Vô Lượng, Xả Vô Lượng) thấm nhuần được điều nào, tốt điều đó với tha nhân trong cuộc đời.
Bài viết Bùi Giáng, Ðại Lão Cái Bang của tôi cho Giai Phẩm Xuân Bính Tý (1996) tuần báo Tình Thương ở Little Saigon. Năm 1998 Đại Lão Cái Bang bỏ cuộc chơi ở thế gian để về cõi thiên thu. Nhiều tác phẩm của ông đã ấn hành trên các lãnh vực văn học nghệ thuật, triết học và dịch thuật…
Với thi ca, ông sáng tác khoảng 500 bài thơ, với 15 tập thơ (từ Mưa Nguồn năm 1962 đến Mùa Màng Tháng Tư năm 2007) có tài ứng khẩu thành thơ, đưa tờ giấy phóng bút ra thơ… đặc biệt với thể thơ lục bát. Với nhiều bút hiệu, trong đó có Bùi Bán Dùi, Bùi Bàn Dúi, Bùi Tồn Lưu, Bùi Tồn Lê, Bùi Bê Bối, Bùi Văn Bốn… tuy hơi “ngông”, “gàn” nhưng với Bùi Giáng, không có gì xa lạ.
Bài thơ Đừng Tưởng của nhà thơ Bùi Giáng (?) qua thể thơ lục bát khá dài với triết lý nhân sinh, với hai câu lục bát tựa như ca dao trong dân gian Việt Nam:
“Đừng tưởng không nói là câm.
Không nghe là điếc, không trông là mù…
Đừng tưởng có của đã sang.
Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây…
Đừng tưởng giàu hết cô đơn.
Cao sang hết ốm, tham gian hết nghèo…
Đừng tưởng trong lưỡi có đường,
Nói lời ngon ngọt mười phương chết người…
Đừng tưởng cứ giỏi là hay,
Nhiều khi thất bại đắng cay muôn phần…
Đừng tưởng quan chức là rồng,
Đừng tưởng dân chúng là không biết gì…”
Không rõ bài thơ nầy xuất hiện lúc nào, ở đâu nhưng sau khi “Đại Lão Cái Bang” qua đời, ở trong nước có người tự nhận là tác giả của bài thơ Đừng Tưởng sáng tác năm 1992 có giấy chứng nhận của nhà thơ Bùi Giáng.
Năm 2016, lại có tác giả khác lên tiếng: “Tôi khẳng định bài thơ Đừng Tưởng không phải do ông… sáng tác. Tôi có đầy đủ bằng chứng về thời gian để chứng minh tôi đã viết ra 20 câu thơ trong bài thơ Đừng Tưởng mà ông… ‘đăng ký’ quyền tác giả”. Bài thơ Suy Ngẫm chỉ có 16 câu đưa ra để giành lại bản quyền…
Với tôi, coi như chuyện ruồi bu nên không để tên. Với bài thơ Đừng Tưởng, hay, thú vị nhưng tại sao không phổ biến trên báo, trên internet… mà đợi đến 13 năm sau (1992-2015) chỉ viết nguệch ngoạc bài thơ trên tờ giấy gởi đến bộ, ký bản quyền, lộng khung. Thật vớ vẩn.
Tội nghiệp nhà thơ Bùi Giáng, tài hoa nhưng đau khổ, lận đận cả một đời trong cõi ô trọc nầy, khi rũ bỏ quần áo Cái Bang “Sài Gòn Chợ Lớn rong chơi. Đi lên đi xuống đã đời du côn!” ra đi bên kia thế giới… còn có người tranh chấp bài thơ. Thế mới biết “ở chốn nhân gian” xô bồ điều gì cũng có thể xảy ra, nhất là những người bệnh tưởng.
Với tôi, nhà thơ Bùi Giáng là hiện thân, “ông tổ” của bệnh tưởng. Trong thi ca, ông liệt kê những giai nhân từ trong nước đến hải ngoại với bao mối tình đơn phương, thầm kín… đeo đuổi qua năm tháng. Chỉ có ông mới không ngần ngại bộc lộ mối tình si mà hầu như mọi người “sống để bụng, chết mang theo”!
Tác phẩm Tư Tưởng Hiện Đại của Bùi Giáng gồm hai quyển ấn hành vào đầu thập niên 1960s. Quyển I với Kierkegaard, Kierkegaard, Kierkegaard… Quyển II với Martin Heidegger & Tư Tưởng Hiện Đại, trong đó ông để cập thêm William Shakespeare, André Gide, Albert Camus, Antoine de Saint – Exupéry, Gérard de Nerval… được đánh giá là công trình biên khảo triết học giá trị nhất vào thời điểm đó.
*
Trong cõi ta bà nầy như bài thơ Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu của Du Tử Lê với 34 câu thì mọi việc xảy ra đều không thể hiểu. Về tình yêu thì ngay cả chính bản thân cũng không thể hiểu, nên khi vướng vào thì lấy câu “Trái tim có lý lẽ riêng của nó mà lý trí không biết đến” (The heart has its reasons which reason knows not) của triết gia Blaise Pascal từ thế kỷ 17 để tự biện minh.
Ngày xưa tuổi thọ không cao “Nhân sinh thất thập cổ lai hy” trong bài thơ Khúc Giang của Đỗ Phủ cách nay một nghìn hai trăm năm bên Tàu. Vì vậy bước vào tuổi sáu mươi (60 Năm Cuộc Đời, nhạc phẩm của Y Vân) đã gọi bằng cụ. Ngày nay, tuổi thọ tăng cao, với phái nữ nhờ mỹ phẩm và học “giả” nên không dám gọi bằng cụ bà. Để “kính lão (bà) đắc thọ” nên chỉ lạm bàn về phái nam.
Rất nhiều bài viết về “trâu già gặm cỏ non” với các cụ già Việt kiều cảm thấy sống nơi xứ người vô vị, có khi bị bỏ rơi nên “quy cố hương” để “gặm cỏ non”, trong đó bài phiếm Gặm Cỏ Non của nhà văn Song Thao ở Canada rất thú vị với câu kết: “Tôi kể vài chuyện trâu già cỏ non để tặng mấy ông bạn già của tôi. Chẳng biết các ông ấy vui hay… ngậm ngùi!”.
Trở lại chuyện các cụ ông, lỡ trót yêu nhưng rồi “cuốn theo chiều gió”, thẫn thờ ca bài Buồn Trong Kỷ Niệm của Trúc Phương: “Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn… Đi thêm một bước trót nhớ thêm một bước. Nếu ta còn nhớ mắt môi người cũ. Xin mang theo tiếng yêu khi gọi anh với em…” nhất là khi đôi tình nhân đũa lệch!
Nhân gian không thể hiểu, khi cụ bà “lửng lơ con cá vàng” thì cụ ông “dở cười dở khóc” đơn phương thầm yêu trộm nhớ… thả hồn phiêu lãng… lãng nhách trong cơn mê! Lão bà càng lửng lơ thì lão ông nặng tình càng say đắm! Thà như nhà thơ Hoàng Cầm với bài thơ Nếu Anh Còn Trẻ cách nay tám thập niên: “Nếu anh còn trẻ như năm cũ. Quyết đón em về sống với anh” (Phạm Duy phổ ca khúc Tình Cầm) thấy còn có lý hơn.
Sống nơi xứ người, con cái lập gia đình, có cuộc sống riêng, cha/mẹ sống thui thủi, lão ông cảm thấy cô đơn, trống vắng nên bệnh tưởng dễ xâm nhập… nhất là tình yêu. Với đối tượng thật/giả không thể hiểu. “Biết chết liền” như lời nhà báo thường viết phiếm với ba chữ cuối cùng.
Ngày xưa, Lão Tử nói: “Tri nhân giả trí, tự tri giả minh, thắng nhân giả hữu lực, tự thắng giả cường”, (Biết người là khôn, biết mình là sáng, thắng người là kẻ có sức, tự thắng mình là kẻ mạnh) nhưng trong cuộc sống cũng có nhiều trường hợp không biết mình, không biết người cũng vì bệnh tưởng. Nếu đọc Le Malade Imaginaire của văn hào Molière, giả bệnh thử xem lão bà “xoay vần ra sao”… thật, hư, giả, dỏm cho biết sự tình trong tình trường. Không biết ngày trước nhạc sĩ Y Vân có, bị, bởi, vì… cho leo cột mỡ mà than vãn trong lời ca: “Đừng lừa dối nhau. Đừng nói уêu khi ta gần nhau. Đừng lừa dối nhau. Vì biết đâu tin nơi tình уêu… Hối tiếc bao nhiêu lời. Đã trao cho người mình уêu!”
Lâu nay, không gặp lão ông, khi hỏi thăm thì được biết phong phanh, ông đang tập ca khúc để trình diễn cho đêm khiêu vũ “hoành tráng”. Có nhạc xập xình, ôm nhau lả lướt dưới ánh đèn màu. Vô tình hỏi lại thì mới biết cụ đang tập ca khúc Cho Người Tình Lỡ của Hoàng Nguyên: “Thôi đành quên những tiếng yêu đầu. Những lời yêu ấy nay đã quá xa”!
Vào thời điểm nầy, đúng 33 năm về trước, tôi bỏ thành phố nhạc đồng quê Nashville, miền Đông Hoa Kỳ, chân ướt chân ráo đến chốn lao xao, xin chọn nơi nầy làm quê hương, bao nhiêu “bức tranh vân cẩu” đến rồi đi theo thời gian. Tất cả chỉ là hư vô. Tạm bợ trong cõi nhân gian.
Happy Thanksgiving
Little Saigon, Nov. 19, 2023