Bánh mứt ngày Tết. (Hình minh họa: Mdmmikle/Unsplash)

Tỉnh Quảng Ngãi, miền Trung, vào giữa Tháng Mười âm lịch, chỉ mới thấy mai vàng én lượn khắp phố, thiên hạ đã nghĩ ngay Xuân sắp về rồi đó.

Mùa xuân càng rõ nét chầm chậm tiến tới, khi ngồi trong nhà nhìn ra thấy cô gánh gừng đi ngang, những nhánh gừng non còn lá, cột từng chùm, củ gừng mơn mởn nõn nà như những bàn tay đẹp. Không phải loại gừng già, da sần sùi còn lấn cấn đất đỏ.

Gần về Tết, người gánh gừng càng gia tăng, cùng với người bán kiệu, hành, bí, khoai, lần lượt nối tiếp nhau nườm nượp ra chợ. May thì gặp mối, chưa kịp tới chợ đã bán sạch cho những gia đình hai bên đường.

Trong phố, thiên hạ lăng xăng đón Tết. Nhiều gia đình bày lò than ra trước nhà vừa trông hàng vừa sên mứt. Mùi mứt từ trong thau bốc hơi thơm phưng phức. Đang mùa đông mà hương vị xuân cứ lảng vảng qua các sàn củ kiệu, củ hành, mứt gừng, mứt bí, mứt khoai, … phơi rải rác trước sân trong phố, có khi trên cả nóc nhà. Ai nấy như rộn ràng đón chờ một ngày mới. Tôi cũng vậy. Năm đó tôi mới chỉ mười lăm. Cái tuổi chưa đủ lớn nhưng đã hết trẻ thơ. Tôi thích đi vào thế giới của người lớn, làm người lớn, hơn là muốn thiên hạ nhìn mình bằng con mắt trẻ con. Thấy mọi người bận rộn với bánh mứt dưa hành củ kiệu lòng tôi cũng nao nao. Cái thú vị của những ngày nô nức chờ Tết, tôi thấy thích thú hơn là những ngày trong Tết.

Biết xin mẹ tiền để lo sắm Tết sẽ không được, vì vài năm trước, không năm nào tôi không nhắc nhở mẹ hãy bày biện làm bánh trái cho xôn xao cửa nhà. Năm nào bà cũng lắc đầu, viện lẽ tốn thì giờ. Bà mải lo làm ăn, đợi đến 28, 29 Tết mới cùng hàng xóm nấu chung nồi bánh chưng, gói vài cây giò thủ, mua một ký hạt dưa, vài ký mứt sen, mứt mãng cầu,… thế là đủ.

Cho nên tôi phải đập con heo, vét hết tiền để dành ra chợ mua một lò than, thau nhôm, các thứ cần thiết rồi tự làm mứt lấy. Tôi cũng lựa gừng củ thật phẳng, lớn theo lời người hàng xóm căn dặn, thái bằng dao bào cho lát gừng mỏng đều nhau. Củ nào méo mó cong co thì lạng bằng tay sao cho khéo mới được. Ôi chao, niềm háo hức hăng say lúc ban đầu của tôi có thừa mà tính kiên nhẫn, trì chí thì tôi chưa đủ. Vì thế, ngồi rim mứt một hồi, nhìn thau mứt riu riu từ sáng cho tới trưa tôi bắt đầu sốt ruột, buồn ngủ, nhất là mùi thơm của đường và gừng quyện vào nhau cứ bốc lên khiêu khích mũi tôi. Cái tính bẩm sinh háu ăn của trẻ con trong tôi bừng dậy, tôi chịu hết nổi những viên than hiu hắt trong lò, tôi mồi thêm, mồi thêm than vào, chả mấy chốc ngọn lửa bùng lên. Và thau mứt đang trắng của tôi cạn nhanh để chuyển sang màu vàng rồi nâu sẫm…!

Cuối cùng, có tiếng thất thanh của mẹ tôi:

-Hãy nhắc nó xuống mau! Nó sắp thành kẹo đắng rồi! Đã bảo…!

Đã bảo thì đã bảo. Không lẽ mới xuất quân tôi lại chịu đầu hàng? Tôi vắt một quả chanh vào thau mứt để cứu vãn tình thế, biến thau mứt sắp cháy thành thau mứt dẻo ngon lành.

Những thất bại luôn là bài học kinh nghiệm đưa đến thành công. Nên Tết năm đó trong những món ăn mừng xuân của gia đình tôi, đã có thêm sự hiện diện khiêm tốn của vài thẩu mứt do tôi thực hiện. Như mứt bí, mứt dừa, mứt khoai, mứt gừng (mứt gừng khô chứ không phải mứt gừng dẻo. Thau mứt gừng dẻo “bất đắc dĩ” xém hư đã được chị em tôi chiếu cố lúc đó rồi).

Trong Kiều của cụ Nguyễn Du có câu: “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay.” Tôi đã qua “cái cầu” làm mứt tôi mới hiểu rõ để khâm phục công trình vừa tỉ mỉ vừa khéo tay vừa kiên nhẫn của bà Phước sát cạnh nhà.

Bà Phước là tay gia chánh rất giỏi, thích làm bánh mứt. Trước đây hồi ông Phước chưa bệnh, con cái bà đề huề, bà thường biếu ba má tôi đĩa bánh đặc sản miền Trung. Nào bánh ít lá gai, bánh dừa bột năng nhân đậu, bánh thuẩn màu vàng nghệ, bánh nổ bằng nếp rang, bánh đậu xanh ướt, xanh khô. Tất cả được bà trình bày khéo léo dưới nhiều hình dạng đẹp mắt như bánh ít lá gai gói trong lá chuối hình tháp, bánh dừa nằm trong chiếc hộp vuông xinh xắn kết bằng lá dừa non, bánh đậu xanh ướt vê tròn bọc trong những chiếc giấy bóng kiếng đủ màu xanh, đỏ, vàng, trắng cắt tua tủa xòe ra như hình đóa hoa cúc. Có điều, bà giỏi bánh trái nhưng lại hay giấu nghề, bà không muốn chỉ vẽ cho ai ngay cả người thân trong họ.

Vào dịp Tết, bà trổ tài làm mứt không ai bì được. Không phải vì những miếng mứt dừa của bà phải trắng phau, mứt gừng phải phẳng to bản; mứt khoai, mứt bí phải tỉ mỉ cắt thành hình hoa, hình sao, hình nhiều khía cạnh… mà chính cách làm công phu của bà khiến mọi người chú ý, ngạc nhiên.

Từ nhiều năm rồi, không Tết nào bà không bày làm mứt. Có thể đó là một thói quen, cũng có thể là sở thích của bà. Ngay cả khi ông Phước lâm bệnh nằm một chỗ, con cái bà đều học ở xa, trong cảnh nhà vắng vẻ, quạnh hiu, mùa Xuân vẫn hiện diện nơi bà.

Tết năm đó, cũng như những cái Tết âm thầm của cuộc đời bà, ông Phước vẫn nằm im, con cái bà vẫn chưa về. Từ đầu Tháng Mười âm, tôi đã thấy bà lục đục làm mứt. Vẫn cái lò than âm ỉ, hắt hiu, lửa hồng vốn chỉ lưa thưa vài viên than bị tro tàn phủ trắng không đủ sức làm sôi được, dù là sôi lăn tăn cái thau con với một dúm mứt gừng bên trong. Điều đó, không phải bà lơ là không chú tâm củi lửa. Sên mứt ai cũng có một cách. Riêng cái cách của bà Phước thì quá ư đặc biệt, công phu, nhất là lúc bà sên mứt khoai, mứt bí.

Trong thau chỉ vỏn vẹn tám, chín miếng khoai. Bà xếp thứ tự rải rác trên mặt thau, không cho miếng nào chạm miếng nào, đừng nói chi chúng nằm đè lên nhau. Bà sợ sự chen chúc của mấy miếng mứt sẽ làm dập cánh hoa khoai mà bà đã cố công cắt tỉa. Lúc nước đường gần cạn, bà gắp bớt than sẵn không nhiều ra. Thau mứt bấy giờ chỉ còn hâm hấp để bà có thể đưa tay nhẹ nhàng lật trở miếng khoai như người ta đưa tay nâng niu em bé trong nôi. Cứ thế, hết mẻ khoai này, bà lại bắt đầu sên mẻ khoai khác.

Bà Phước rim mứt cả ngày lẫn đêm. Ban ngày bà đặt lò than bên hiên nhà trước, vừa rim mứt vừa trông hàng. Bà Phước có một cửa tiệm tạp hóa bán lặt vặt vài thứ gia dụng. Đến trưa, bà để đấy xuống bếp nấu ăn, thỉnh thoảng chạy lên lầu coi chừng ông Phước. Tối đến bà bưng lò mứt lên căn lầu ngang đặt nằm cuối giường ông Phước rồi ngồi đan áo và thủ thỉ trò chuyện cùng ông.

Công việc đủng đỉnh tẩn mẩn như thế đương nhiên không thể kết thúc nhanh chóng. Bà ề à kéo dài ngày này qua tháng nọ, cho đến một đêm kia, đêm cuối Tháng Chạp, chỉ còn bốn hôm nữa là đến Tết, bầu trời đen nghịt, không trăng, không sao. Ngoài phố, tiếng pháo đây đó vẫn đì đùng nổ vang. Gió đêm mơn man thổi. Từ căn phòng ngang, bên cửa sổ, nơi ông Phước vẫn nằm, ngọn đèn néon sáu tấc tỏa ánh sáng trắng hắt qua tấm lưới sân thượng nhà tôi rọi sáng các chậu hoa vạn thọ, hoa mồng gà, thược dược và cây mai tứ quý đang trổ hoa vàng rực một góc sân do ba tôi vun trồng. Dưới chân giường ông Phước, lò than rim mứt của bà Phước vẫn riu riu như tự bao giờ.

Bên nhà tôi, mới hơn 11 giờ đêm, ba má và chị em tôi đã lên giường ngủ sớm. Giấc ngủ cận xuân khó đến. Nằm nghe tiếng đại bác xa xa vọng về, má tôi chép miệng than:

-Không biết Tết này Việt cộng có để yên ăn Tết không nữa. Chứ như năm Mậu Thân thì ớn quá.

Góc Tết. (Hình minh họa: Taan Huyn/Unsplash)

Năm Mậu Thân, tôi còn nhớ như in, Việt cộng tấn công đúng vào Mùng Một rạng Mùng Hai Tết. Súng lớn súng nhỏ liên tiếp nổ dữ dội, chát chúa suốt đêm. Mặt trận xảy ra ngay một góc thành phố. Căn phòng sau sân thượng nhà tôi bị trúng pháo kích sập mất một góc. Cũng may hồi đó ông Phước chưa bịnh nằm một chỗ, anh chị tôi đưa cháu về thăm nhà ngoại, gia đình tôi đều chạy kịp xuống núp ở chân cầu thang nên không ai hề hấn gì. Sáng ra mới hay Việt cộng đột kích vào tận trong phố bắt bớ nhiều đàn ông, thanh niên đem đi mất tích.

Từ sau cái Tết kinh hoàng đó, mỗi độ Xuân về, tuy mọi người bên ngoài thản nhiên tưng bừng đón Tết, nhưng thực sự nỗi lo âu thấp thỏm vẫn canh cánh bên lòng. Nhà nhà đều xây hầm chống đạn. Có nhà, cây mai trong phòng khách đứng vô duyên bên cạnh cái hầm đắp bằng những bao cát đen xì.

Đêm nay, tiếng súng dồn dập vọng về khiến giấc ngủ thật bất an. Cả nhà tôi thao thức, nằm nhắc lại những trận đánh Tết Mậu Thân, cách giết người chôn tập thể hết sức dã man vô nhân đạo của Việt cộng đối với đồng bào Huế. Ba má tôi còn kể cho nghe những cái Tết xa xưa nơi quê nhà ở miền Bắc. Những hội hè, đình đám vào dịp Xuân mà ba má tôi tham dự.

Quá nửa đêm, cả nhà tôi mệt mỏi thiếp ngủ được một chút, bỗng giật mình thức giấc bởi tiếng la thất thanh hớt hải của bà Phước bên nhà:

-Bớ người ta, Việt cộng! Cứu tôi với! Bớ người ta, Việt cộng!

Tôi như một cái máy cùng cả nhà xô cửa chạy thục mạng xuống hầm. Lúc tới đầu cầu thang, tôi nghe tiếng la của bà Phước càng cấp bách rõ ràng hơn. Ba tôi bình tĩnh đứng lại, nép sát một bên cửa sổ ghé mắt nhìn qua nhà bà Phước. Đột nhiên ông hốt hoảng thấy ánh lửa bập bùng đang cất cao ngọn nơi giường ông Phước. Không có tên Việt cộng nào. Bà Phước đang dậm chân ở hành lang hớt hải la. Ông Phước giọng yếu ớt cũng vừa la vừa cố gắng cựa quậy để tránh ngọn lửa đang từ từ liếm dần tới người ông. Ba tôi chợt hiểu, vội nhanh chân chạy xuống nhà dưới huy động các anh thợ làm bánh mì của ba tôi:

-Chúng mày đâu? Cháy nhà! Bà Phước bị cháy nhà!

Lời nói như một tiếng súng lệnh, các anh thợ hoàn hồn, lò dò từ nóc lò bánh mì nhảy xuống, mình mẩy ai nấy lấm đầy tro than, mồ hôi nhễ nhại, ướt như tắm. Thì ra khi nãy, lúc đang làm bánh mì, các anh nghe tiếng la hốt hoảng của bà Phước, trong nỗi kinh hãi tưởng Việt cộng đột nhập, các anh vội vã nhảy lên nóc lò ẩn trốn không kể gì đến cơn nóng hừng hực do hơi lửa trong lò bốc lên. Sau khi lấy lại được bình tĩnh, các anh thợ không ai bảo ai, kẻ tìm thùng, người xách xô nhanh chân tới cái giếng phía sau nhà bếp thả gàu múc nước. Chợt các anh giật thót người khi nghe hai tiếng “úi da” phát ra từ đáy giếng. Một lúc định thần, anh thấp nhất trong bọn trỏ miệng nhìn xuống giếng đen ngòm, nói to:

-Ê, mày Minh. Lên đi mày. Bộ mày muốn làm hà bá hay sao mà chui xuống giếng núp vậy mày?

Anh Minh từ đáy giếng mò mẫm nương theo các móc sắt nơi thành giếng trèo lên. Anh run như cầy sấy, răng đánh bò cạp, đưa mắt nhìn xung quanh, ngơ ngác hỏi:

-Ủa, Việt cộng rút hết rồi hả, sao tụi bây còn xớ rớ ở đây?

Có tiếng cười hề hề:

-Ừ, trước sự phản công của quân ta, phe cộng đã rút lui, bỏ lại chiến trường năm xác chết, mười bị thương. Còn quân ta hoàn toàn vô sự!

Anh Minh cũng cười hì hì:

-Thằng nói phét. Mới nghe Việt cộng đến là xúm nhau chạy hết ráo. Hèn nhát quá!

Một anh khác trả đũa:

-Chẳng hạn như mày!

Lúc các anh thợ xách nước chạy lên sân thượng thì thấy ba tôi đang cầm vòi (vòi nước của sân thượng ba tôi thường dùng để tưới cây) xịt qua phòng ông Phước. Các anh cũng xối xả dội tới tấp. Chả mấy chốc, ngọn lửa tắt ngúm. Ông Phước nằm đơ ra, xẹp lép, ướt như chuột lột. Ông mệt mỏi thều thào:

-Đã nói rồi,… đã nói rồi,… tôi ăn được bao nhiêu mứt… mà bà cứ làm… suốt ngày suốt đêm?!

Thì ra, ngọn lửa bốc lên do chân mùng của ông Phước tình cờ rớt vào lò than rim mứt của bà Phước rồi bén dần vào khăn trải giường. Bà Phước biết lỗi lặng yên không trả lời. Một lát, bà cũng hoàn hồn, quay ra nhìn ba tôi và các anh thợ, hổn hển:

-Cám ơn ông Thành, cám ơn các anh. May có ông Thành và các anh cứu kịp, không thì…

-…Không thì… chết cả đám! Một anh thợ nói.

Ba tôi chân thật:

-Cháy nhà thì bà la cháy nhà. Sao bà hô Việt cộng, thiên hạ sợ chạy hết thì sao?

Bà Phước phân bua:

-Lúc đó tôi hoảng quá còn nghĩ được gì đâu. Cứ tưởng la vậy sẽ tăng thêm phần nguy hiểm chớ!!!

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: