Bộ ly tách uống trà, và ký ức về mẹ

(Hình minh họa: Rizky Ramadhan/Unsplash)

Vài điều cảm xúc cho bài viết: “Bộ ly tách uống trà” nói đến hoàn cảnh nghèo của mẹ con tác giả. Trong một lần hư xe, người mẹ đã nhìn bộ ly tách uống trà qua khung cửa kính của một cửa tiệm mà ước ao có tiền để mua nó! Ước ao của mẹ đã làm cho người con trai thẫn thờ suy tư rồi tìm cách làm đầy ước mơ của mẹ.

“Vài ký ức về mẹ” khi tác giả lớn khôn, học hành thành tài đi làm việc nhiều nơi trên thế giới, chứng kiến những khốn khổ, nghèo túng của nhân gian trên đường công tác, rồi khi có điều kiện trở về thăm cố hương, người mẹ không còn nữa, tác giả cũng đã là một ông già tóc bạc trắng. Nhưng khi nhìn lại dấu tích dù vỡ bể của món quà nhỏ bé mà mấy chục năm qua đã phải nhịn ăn dành tiền mua tặng mẹ, đã kéo tác giả nhớ về thời gian nghèo túng ngày xưa đã làm cho đứa con trai thẫn thờ buông tiếng thở dài với sự tàn độc của thời gian.

Bộ ly tách uống trà

Bộ mặt giả tạo với vẻ thanh bình, giàu có của Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam đang thời chiến tranh vào những ngày sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 gần như biến mất hoàn toàn. Thay vào đó là những khuôn mặt lo lắng, bàng hoàng của người dân thành phố. Những chốn ăn chơi, sầm uất về đêm không còn nữa. Những ngôi chợ luôn luôn đầy ắp thực phẩm cũng tiêu điều, trống trơn vì không có nguồn hàng cung cấp. Nhất là cây trái, rau cỏ từ xưa vẫn được cung cấp từ Đà lạt, Long Khánh và các tỉnh ngoại biên Sài gòn cũng không còn nữa. Nếu có chỉ còn lai rai với số lượng ít ỏi từ những nhà buôn nhỏ lẻ  từ những vùng ven đô, tạm gọi là an ninh mang đến, mà giá cả mắc gấp nhiều lần nhưng phẩm chất lại kém hơn.

Mẹ tôi bán chuối lẻ ở lề đường, gần như mỗi ngày phải lên chợ Cầu Ông Lãnh tranh nhau mua với người khác, dù giá cả gấp 2, 3 lần bình thường nhưng cũng chỉ được vài chục nải không đủ để bán. Lý do là nguồn chuối từ Long Khánh hay các tỉnh miền Tây gần như hoàn toàn chấm dứt, chỉ còn lai rai những buồng chuối kém chất lượng từ những gia đình có vườn tược ven thành phố mang đến. Trong tình trạng không có hàng để bán nhưng gia đình thì vẫn cần tiền để sinh nhai, tôi bàn với mẹ, đi xuống những vùng quê hơi xa thành phố, trực tiếp đến các nhà vườn mua rau muống về bán. Dù biết là liều lĩnh, khi mà mọi con đường dẫn tới Sài Gòn vẫn còn vang động tiếng súng. Nhiều người cho biết dọc Quốc Lộ 1 vẫn có những đám cháy vì bom đạn chưa tắt lửa đã làm cho mẹ con chúng tôi có phần lo lắng nhưng vì kế sinh nhai mà phải liều lĩnh mà thôi.

Ngay ngày hôm sau, với chiếc xe Suzuki cũ kỹ kèm theo những bao tải, sọt, bị, dây nhợ … hai mẹ con chúng tôi theo quốc lộ 1, nhắm hướng Hóc Môn, rẽ vào những vùng quê hẻo lánh, đến những ruộng rau muống bên đường làng để hỏi mua. Khi đã có chỗ mua, mẹ con chúng tôi cũng phải nhảy xuống ruộng cùng với gia đình người chủ cắt, bó cột rồi chất lên xe nhanh chóng chạy về thành phố trước hoàng hôn để tránh những bất trắc về an ninh trên đường .

Rồi cứ thế, suốt cả tháng trời sau biến cố Mậu thân, cứ khoảng 2 hay 3 ngày một lần, mẹ con chúng tôi lại chạy xe xuống mua rau về bán. Một lần vào buổi chiều khi mua rau xong, về đến gần ngã ba Ông Tạ thì bánh xe bị bể. Chẳng làm sao hơn tôi đành phải dẫn xe vào chỗ vá xe bên đường. Trong lúc chờ đợi sửa xe, tôi và mẹ bâng quơ ghé mắt vào những tiệm bán hàng ở chung quanh, gần chỗ sửa xe. Đến một tiệm khá khang trang bán đồ gia dụng như chén bát, nồi niêu, bình thủy..v..v.. những món hàng cao cấp hơn so với những tiệm bình dân thường thấy trong chợ. Tôi chợt thấy mẹ tôi ngẩn ngơ, im lặng ngắm nghía một bộ tách uống trà bằng men sứ khá đẹp bên trong tấm kính của hiệu buôn . Chiếc bình pha trà với 6 chiếc tách uống trà xinh xắn nhiều màu sắc, in hình đôi chim phượng trên  nền men trắng đục, được xếp gọn ghẽ trong một hộp bằng các tông nhiều màu, sang trọng.

Với tôi tất cả những vật dụng trong tiệm chẳng có gì đặc biệt, nó hoàn toàn ra ngoài sở thích của thằng con trai không biết gì về bếp núc. Nhưng tôi có cảm giác ánh mắt của mẹ tôi có cái gì ẩn giấu sự thèm muốn, ước mơ khi nhìn bộ ly tách. Với chút tò mò, quay sang mẹ, tôi hỏi bâng quơ:

-Bộ tách uống trà đẹp lắm mẹ nhỉ?

Ngập ngừng tí chút, nhưng ánh mắt vẫn không rời món hàng , mẹ nói nhỏ với tôi nhưng hình như cũng cho chính mẹ nghe:

-Ừ, bộ ly tách đẹp thật! Chẳng biết bao giờ nhà mình có tiền sắm một bộ như thế này để tiếp khách?

Nghe mẹ nói, trong đầu tôi hiện ngay ra cái ấm nấu trà bằng nhôm mà hàng ngày gia đình tôi vẫn dùng để nấu trà tươi. Khách đến nhà được tiếp đãi bằng những chiếc ly thuỷ tinh nghèo nàn, trà mời khách được rót trực tiếp từ cái ấm nhôm cũ kỹ đó. Đưa mắt nhìn thật kỹ bộ ly tách trong khung kính, rồi tôi kín đáo chuyển ánh mắt nhìn mẹ. Người đàn bà lam lũ trong chiếc áo cánh màu nâu nhạt, bạc màu… người mẹ cả đời đã phải sống trong nghèo túng chỉ vì phải dành mọi nhu cầu cho chồng con đã làm cho tôi thờ thẩn thương mẹ.

Cũng lúc đó, trong tâm trạng buồn buồn, thương mẹ, trong đầu tôi hiện ra một ước mơ quá nhỏ bé so với bao nhiêu người khác, những người có cuộc sống khá giả hơn gia đình tôi. Đó là làm sao tôi có được bộ ly tách đẹp đẽ kia để tặng cho mẹ tôi.  Chắc chắn nó sẽ được mẹ đặt trên mặt bàn để có những câu trầm trồ khen tặng từ những người khách của gia đình và cả ánh mắt tự hào, hạnh phúc của mẹ tôi nữa. Chỉ với tưởng tượng, ước mơ đó đã làm cho tôi sung sướng, thẫn thờ . Nhưng khi nhìn đến tấm giấy nho nhỏ ghi giá 450 đồng trước chiếc hộp, làm cho tôi có cảm giác thất vọng, vì quá nó quá mắc. Món tiền đó vượt khỏi tầm tay với của nếp sống đang còn nghèo nàn của gia đình tôi.

Cũng trong nỗi thất vọng, buồn bã đó, tôi đưa mắt nhìn về chiếc xe Suzuki bạc rạc của mình ở góc đường, nó đã được người thợ sửa xe vá xong, người thợ sửa xe đang cúi mình gò nắn lại bánh xe. Tôi cũng đưa mắt nhìn rất kỹ vào vào những bó rau muống lờm xờm được cột chặt hay đeo vào những khúc gỗ dọc theo thân xe. Tôi tự hỏi với khoảng hơn một trăm bó rau muống đó, nếu may mắn bán được với giá rất hời của những ngày Sài Gòn trong máu lửa. Sau khi trừ tiền vốn , tiền xăng và cả tiền vá xe hôm nay ! Có lẽ khá lắm mẹ con tôi cũng chỉ kiếm được khoảng 60 đồng tiền lời. Với món tiền thu hoạch nhỏ bé đó thì làm sao mua được bộ ly tách uống trà đẹp đẽ, ước mơ của mẹ tôi với giá 450 đồng được!

Cũng với tâm trạng buồn buồn vì nghèo túng đó. Tôi lại nghĩ đến đồng lương èo ọt của bố tôi, người trung sĩ trong quân lực VNCH với khoảng 4,000 đồng mỗi tháng, nhưng phải cưu mang 7 anh em chúng tôi đang tuổi ăn học. Đã thế còn phải cung ứng cho ông nội tôi luôn luôn bệnh tật… Làm sao có tiền bỏ ra một lúc 450 đồng để chi trả cho một ước mơ, dù chỉ là một bộ ly tách uống trà được !? Nhiều khi vì thiếu thốn không đủ tiền mua hẳn một “tĩn”  nước mắm để nấu ăn, mẹ  đã phải sai tôi hay cô em gái mang bát đến tiệm tạp hoá gần nhà mua từng thìa nước mắm về nấu ăn.

Đúng như vậy, sáu mươi đồng tiền lời bán rau muống cho cả một ngày cực nhọc của mẹ con chúng tôi, dù chẳng là gì so với xã hội nhưng chắc chắn nó là một điều phải có, không thể thiếu được cho cuộc sinh sống quá túng thiếu của gia đình tôi . Để có món tiền 450 đồng cung ứng cho ước mơ của mẹ, là một vấn đề rất khó, một giấc mơ không có thật của tôi ! Một giấc mơ mà có lẽ cả gia đình tôi phải nhịn đói, dành dụm cả tháng để mua được một bộ ly tách uống trà để tiếp khách, nó là một truyện hoang đường, không thực tế ! Nghĩ như vậy tôi đã hiểu rất kỹ ý nghĩa lời nói, ánh mắt của mẹ nhìn bộ ly tách uống trà vì đó chỉ là một ước mơ!

Nhưng cũng chính lúc cảm giác buồn thấm thía với kiếp nghèo khó của gia đình phủ trùm lên tâm trí của mình, một niềm vui, hy vọng chợt loé sáng lên trong lòng tôi. Tuần tới tôi sẽ có 400 đồng, tiền lương dạy kèm cho 2 đứa bé con một gia đình khá gỉa trong cư xá Sĩ quan Chí Hoà. Tại sao tôi không nhín món tiền đó cho cà phê, ăn sáng hay mua sách vở, quần áo của mình và coi món tiền đó như mình không có hay vì một xui xẻo nào đó mà bị đánh mất! Rồi dành nó để làm cho giấc mơ của mẹ tôi thành sự thật nhỉ ? Nghĩ như vậy, ánh mắt tôi sáng lên, kín đáo, nhỏ nhẹ,  tôi hỏi mẹ:

-Giá họ để thế mà thôi, ai cấm mình trả giá mẹ nhỉ?

-Vẫn không rời ánh mắt ra khỏi chiếc hộp, với âm thanh bâng quơ, có tí chút thất vọng, mẹ nói nhẹ:

-Dù có trả giá, quá lắm họ cũng chỉ bớt được vài chục mà thôi. Nó vẫn quá xa, ngoài tầm tay của gia đình mình con ạ!

***

Rồi đúng như dự tính, tuần lễ sau, ngay sau khi dậy học xong cho 2 đứa bé tôi nhận chiếc phong bì đựng đúng 4 tờ giấy bạc 100 đồng, tiền công cho một tháng trời dạy kèm, mỗi tuần 3 buổi tối từ tay bà mẹ của hai đứa bé . Không một tí lưỡng lự, tôi đến ngay tiệm bán hàng gia dụng. Sau khi dựng xe sát gần cửa tiệm, trước khi bước vào tiệm, tôi còn đứng lại trước khung cửa kính một tí chút, đưa mắt ngắm nhìn rất kỹ bộ tách uống trà một lần nữa như để kiểm xét xem quyết định của mình đã chín chắn chưa?

Khi vừa bước đến ngưỡng cửa tiệm, người bán hàng là một cặp vợ chồng khá đứng tuổi, bà  vợ đon đả với nụ cười rất tươi bước ra đón tiếp tôi, bà ta hỏi:

-Cậu muốn mua gì, tôi lấy cho cậu xem?

Tôi đưa tay lên gãi đầu (có lẽ đây là hành động ngượng ngùng hay thiếu tự tin cố hữu của tôi thì phải ?!), với tí chút ngập ngửng tôi nói khẽ:

-Cháu muốn mua bộ ly tách uống trà, mà bác bầy trong tủ kính. Xin hai bác lấy cho cháu xem.

Người đàn bà bước đến chiếc tủ, cầm chiếc hộp, đưa tay phủi bụi lấy lệ, rồi thận trọng đưa chiếc hộp cho tôi:

-Hàng sứ mác Đài Loan, loại rất tốt và đẹp lắm. Cậu cứ thoải mái xem thật kỹ rồi hãy mua.

(Hình minh họa: 五玄土 ORIENTO/Unsplash)

Tôi để hộp ly tách lên chiếc bàn, trước mặt người đàn ông. Chậm rãi tôi lấy từng chiếc ly, cái đĩa và chiếc bình ra xoay qua xoay lại xem rất kỷ. Chắc chắn món hàng không có một vết nứt hay vết bể nào rồi tôi xếp chúng ngay ngắn trở lại vào chiếc hộp. Ngước mắt nhìn khuôn mặt đang chờ đợi của hai vợ chồng người bán hàng tôi trả giá:

-Hai bác có thể bớt cho cháu được không? 450 đồng đắt quá.

Người vợ vui vẻ, nhanh nhảu trả lời:

-Tôi để đúng giá đó, nhưng nếu cậu muốn mua tôi bớt cho cậu 10 đồng làm quen mà thôi.

Chẳng cần đợi tôi trả lời bà ta nói tiếp:

Cậu đừng sợ mua hớ, tôi không muốn mang tiếng bán cho đàn ông, con trai mà nói thách đâu.

Nghe bà ta nói, lời đoán giá của mẹ tôi hiện ra trong trí nhớ, cho tôi cảm giác người bán hàng không phải là người nói dối. Nhưng tôi nghĩ, dù có kèn cựa xuống giá thêm ở mức 430 hay 420 đồng, giá tiền đó vẫn là con số cao hơn chiếc phong bì mà tôi đang có trong túi áo. Ngần ngại một tí, móc chiếc phong bì trong túi áo ra, tôi im lặng để lên trên chiếc hộp bình trà, trước mặt người đàn ông. Tôi nhìn vào khuôn mặt khá phúc hậu của ông ta, tôi nói rõ ràng từng chữ:

-Cháu nói thật với hai bác, mấy hôm trước mẹ cháu nhìn thấy hộp ly tách này rất thích, nhưng lúc đó mẹ con cháu không có tiền để mua. Hôm nay, cháu vừa lãnh lương dậy kèm được đúng 400 đồng của một tháng tiền công. Nếu hai bác vui lòng bán với giá 400 đồng thì cháu mua còn hơn nữa thì cháu thành thật không có.

Người đàn ông nghe tôi nói, có vẻ  ngạc nhiên, hình như ông ta xúc động vì sự thật thà đến nỗi khó tin của tôi. Ông ta hướng mắt về phía người vợ như có ý dò hỏi. Người vợ nhìn trở lại ông ta rồi quay sang tôi bà ta nói:

-Cậu không còn một vài chục nào nữa hay sao? Nếu thế cậu cứ lấy đi, còn thiếu vài chục khi nào cậu có tiền mang đến trả cho tôi cũng được. Với giá 400 đồng, thành thật là giá vốn của tôi đó!

Chẳng biết sao, vừa nghe người đàn bà nói xong, tôi không một tí ngần ngại trả lời bà ta:

-Thôi! Cháu chẳng muốn thiếu nợ hai bác đâu. Nếu hai bác thấy giúp được, bán cho cháu, cháu rất mang ơn hai bác.  Còn không, cháu đành chờ dịp khác vậy, tiền lương cả tháng trời dạy học cho một bộ ly tách. Vì thương mẹ nên cháu đành nhịn tiêu dùng mà mong làm vui lòng ước mơ của mẹ cháu mà thôi. Cháu không thể nào cố gắng hơn được nữa.

Nghe tôi nói xong, người chồng hơi cau mày , thẩn thờ đưa mắt nhìn người vợ có  ý dò hỏi. Hình như ông ta động lòng với lời phân trần rất thật của tôi. Ông ta hơi chau cặp mắt nhìn vẻ thất vọng hiện trên khuôn mặt tôi khi tôi sửa soạn quay bước ra khỏi tiệm. Chẳng cần chú ý đến ánh mắt còn lưỡng lự của bà vợ, ông ta cầm cái hộp đưa tận tay tôi và nói:

-Cậu đã nói vậy thì tôi chẳng còn gì để chối từ nữa! Thật như vậy, chúng tôi bán vốn, làm quà cho cậu đó.

Trong khi tôi cũng ngẩn ngơ vì không ngờ kết quả tốt như vậy. Bà vợ hơi cau mày nhìn người chồng ra vẻ không vui rồi miễn cưỡng, im lặng bỏ chiếc hộp vào bịch giấy đưa tận tay cho tôi và nói bâng quơ:

-Ông nhà tôi vẫn thế! Bán buôn mà không có lời thì làm sao mà sống?

Tôi im lặng, nhìn ông chồng với ánh mắt biết ơn, cúi đầu mấy lần tỏ vẻ cảm động vì lòng tốt của ông ta rồi tôi nói vài câu cám ơn rất chân tình đến vợ chồng người bán hàng trước khi cầm chiếc hộp bước ra khỏi tiệm. Khi tôi đang loay hoay cột cẩn thận bịch giấy đựng chiếc hộp vào đằng sau xe,  sửa soạn dẫn xe xuống đường thì hai vợ chồng ông chủ tiệm đi ra, đến gần tôi. Bà vợ không còn vẻ khó chịu như lúc đưa chiếc hộp cho tôi nữa. Miệng bà ta mỉm cười hiền hậu nhìn tôi rồi bà bước hơi chậm lại phía sau người chồng. Ông chồng đến gần tôi, thân thiện, cười vui, vỗ nhẹ lên vai tôi, ông ta nói:

-Có thật cậu mua bộ tách ly này tặng mẹ cậu không? Và có thật đây là 400 đồng cả tháng tiền lương dạy kèm của cậu không?

Ngạc nhiên vì thái độ kỳ lạ của họ, tôi ngước mắt ngẩn ngơ nhìn cả hai vợ chồng họ, tôi trả lời:

-Thật như vậy đó hai bác ạ. Không lẽ cháu lừa đảo hai bác sao?

Người đàn ông không nói gì nhưng miệng mỉm cười, đưa tay rút trong túi áo ra tờ giấy bạc 20 đồng, đưa tận tay tôi và nói:

-Chúng tôi tặng cậu thêm 20 đồng nữa. Coi như tí tình cảm quý mến con người chân thành, đầy tình thương mẹ của cậu đó!

Tôi cau mày nhìn vợ chồng người bán tiệm, xác nhận thái độ quá tốt mà họ đã dành cho tôi là sự thật. Tôi lắc đầu,vẫy ta lia lịa , nói với họ:

-Thôi! thôi! Cám ơn hai bác. Hai bác bán rẻ, giá vốn cho cháu đã là tốt lắm rồi. Cháu không dám nhận đâu.

Người chồng vỗ thêm vài cái nhẹ vào vai tôi, vui cười nhét tờ giấy bạc vào túi áo tôi, rồi ông ta nở nụ cười ra vẻ đùa cợt, nhìn tôi ông nói:

-Cậu cứ cầm lấy đi, đừng suy nghĩ mà mất vui. Tôi đoán sau này cậu sẽ thành công. Khi đó cậu làm ông này, ông nọ, mà nhớ đến chúng tôi là được rồi. Biết đâu trong tương lai, thời thế đổi thay, cậu lại có dịp giúp đỡ lại chúng tôi thì sao! Đừng ngại ngần gì cả.

Nói xong ông ta lại cười vui, thân thiện vỗ nhẹ thêm vài cái nữa lên vai tôi rồi nắm tay người vợ đi trở vào tiệm. Sau lần mua bán đầy tình nghĩa đáng nhớ đó, bất cứ lần nào đi qua con đường Lê Văn Duyệt, khu gần Ngã Ba Ông Tạ, tôi cũng đưa mắt nhìn vào tiệm bán hàng của hai ông bà chủ tiệm tốt lòng. Họ đã cho tôi một dịp may để tôi có một món quà tặng mẹ, làm đầy giấc mơ của mẹ, người mẹ mà tôi mãi mãi kính yêu!

***

Thời gian trầm lặng trôi qua. Sự khôn lớn và vững trãi kèm theo sự tính toán chính xác trong cuộc sống. Dĩ  nhiên cũng phải nhờ những may mắn trong đời, tôi đã dựa vào chuyên môn học hành của mình cùng với những cố gắng không ngừng nghỉ, tôi đã kéo gia đình tôi bước ra khỏi hoàn cảnh đói nghèo. Chúng tôi đã có một cơ sở chăn nuôi heo gà nho nhỏ khá quy mô ở Bà Quẹo. Đúng như vậy, tôi đã kéo gia đình tôi đứng dậy, vươn lên khỏi bóng tối triền miên, kéo dài nhiều chục năm trời của gia đình tôi. Mẹ tôi không còn phải cực nhọc ngồi lề đường bán chuối, bán rau như trước nữa! Không còn bị người ta xua đuổi, chửi mắng như xưa nữa. Bà ở nhà chăm sóc đàn heo, đàn gà theo sự hướng dẫn kỹ thuật và tính toán kinh tế của tôi. Những đứa em của tôi cũng chẳng phải nhọc nhằn với lao lực mà lơi là việc học như trước nữa. Chúng được ăn học đầy đủ như bạn bè của chúng,  không còn phải bữa đói, bữa no hay mang mặc cảm nghèo hèn như xưa nữa. Đã thế tôi còn lo được cho một đứa em trai đi du học tự túc… Mức sống gia đình tôi đã êm nhẹ bước vào giới trung lưu trong xã hội, nơi mà quê hương vẫn còn mù mịt khói lửa chiến tranh!

Rồi không dừng lại đó, những may mắn tiếp theo vẫn đến với tôi và gia đình trong sự hy sinh chịu khó của bố mẹ. Dĩ nhiên cũng phải có những sự cố gắng miệt mài, chịu cực nhọc của bản thân tôi, đã làm cho tôi có chút ngạo nghễ, tự tin mà vượt khó vươn lên. Có lẽ với những thành công nho nhỏ đó đối với nhiều người khác, bạn bè quen biết của tôi thì đó chỉ là những chuyện bình thường, chẳng có gì để phô trương, tự hào. Nhưng với tôi, với gia đình, với bố mẹ tôi lại là những kỳ tích, may mắn trong đời. Đúng như vậy, tôi đã tuần tự bước vào đời sống một cách yên bình trong khá nhiều ngạc nhiên của bố mẹ và họ hàng thân quen của tôi. Nhưng bất cứ khi nào có dịp đi qua căn nhà, tiệm buôn của vợ chồng người bán hàng. Tôi luôn luôn nhớ đến họ, hai vợ chồng người chủ tiệm tốt lòng đã cho tôi một ân tình không lớn lắm nhưng nó lại đóng góp vào ý nghĩa rất đẹp của món quà sang trọng đầu tiên mà tôi đã dành tặng cho mẹ tôi. Chính món quà đơn sơ, giá 400 đồng bạc, một tháng  lương dạy kèm của tôi đó, đã có một ý nghĩa quá to lớn và nhớ mãi trong lòng tôi. Nhờ nó mà tôi đã làm đầy ắp được ước mơ quá đơn giản của mẹ tôi. Sau này vì thời thế đổi thay, tôi đã không về được ngày mẹ tôi ra đi vĩnh viễn, tôi đã có chút niềm vui trong lòng tôi vậy.

***

Thời gian vẫn trầm lặng đi qua, tôi tốt nghiệp đại học, rồi xa gia đình xuống đại học Cần Thơ làm việc, cuộc đời tôi thực sự bước vào một giai đoạn mới. Giai đoạn với nhiều ngoắt ngoéo của công hầu, khanh tướng, không còn đơn giản như cuộc đời và lối sống của một sinh viên trong xã hội lúc còn đang đi học nữa. Vai trò một người công chức, có những ganh đua, đố kỵ… phức tạp hơn. Lúc tôi rời xa gia đình xuống Cần Thơ nhận nhiệm sở, bộ ly tách uống trà, món quà kỷ niệm thấm đậm lòng kính yêu của tôi cho mẹ, vẫn hiện diện trên bàn mỗi khi có khách đến chơi. Mặc dù với thời gian, sáu chiếc tách uống trà và đĩa của bộ tách không còn hào nhoáng như thời mới mua nữa.  Nó vẫn còn đủ bộ nhưng vài cái ly đã vết sứt mẻ nho nhỏ, chiếc bình pha trà vẫn còn quay nhưng miệng vòi đã bị bể một góc rất nhỏ. Nhưng với tôi (có lẽ với mẹ tôi nữa) dù bộ ly tách đã cũ nhưng vẫn là một di tích của một kỷ niệm rất đẹp. Món quà của thằng con trai trưởng đã dành trọn tháng lương dạy kèm để mua biếu mẹ làm đầy mơ ước của mẹ! Nó cũng là một dấu vết rất đẹp của lần thấm đẫm mồ hôi và khói lửa chiến tranh để kiếm tiền sinh sống.

Đúng như vậy, từ khi tốt nghiệp xong đại học, xuống Cần Thơ làm việc, gia cảnh của tôi đã đổi thay. Sự nghèo túng xa xưa đã thực sự bị đẩy vào dĩ vãng một cách ngoạn mục, nhưng bộ ly tách uống trà kỷ niệm đó vẫn hiện diện cùng với vài ba món quà khác của tôi mua cho mẹ, cho gia đình. Những món qùa khác, sau này tôi mang về cho gia đình, bố mẹ, lúc đó tôi đã lớn khôn, tài chánh dư dả hơn, dĩ nhiên cũng có giá trị lớn hơn.  Chẳng hạn chiếc máy may hiệu Mitsubishi của Nhật, bộ salon bằng gỗ lim đen bóng, chiếc tủ lạnh to lớn. Ngay cả căn nhà khang trang với vườn cây, chuồng trại chăn nuôi, tất cả những di vật đó như những ghi dấu sự khôn ngoan, sự trưởng thành của tôi. Thằng con trai trưởng nam trong gia đình .

Rồi dịp may vẫn tiếp nối đến với đời tôi, đầu năm 1974  tôi rời xa Việt Nam đi tu nghiệp dài hạn ở Nhật Bản. Tôi ra đi như một đặc ân của vị thần may mắn trong khi đất nước vẫn còn mịt mùa bom đạn và chết chóc. Nhưng chỉ hơn một năm sau ngày tôi đến Nhật Bản, cuộc đổi đời Tháng Tư năm 1975 xảy đến. Chiến tranh chấm dứt đã đưa hầu hết những người Việt dính dấp đến miền Nam Việt Nam ở ngoại quốc hay trong nước vào một giai đoạn mới. Gia đình tôi và ngay cá nhân tôi cũng chẳng phải là trường hợp ngoại trừ.

Biết bao nhiêu cực nhọc lại đến với tôi vì việc học hành còn dang dở, chưa xong. Tôi đã phải tìm sống với những công việc lao lực, thấp hèn ở xứ người. Tôi phải kiếm tiền, phải dành dụm   gửi về cưu mang gia đình đang khó khăn trong thời buổi giao thời sau cuộc chiến.

Mãi đến năm 1979 tôi mới có dịp để quyết định rời xa Nhật bản đi định cư tại Thụy sĩ, khởi đầu một giai đoạn sống thoải mái hơn vì công việc phù hợp với chuyên môn của tôi hơn. Nhưng cũng chỉ được khoảng một năm sau cái khởi đầu may mắn đó. Trời ơi!  Tôi nhận được tin buồn từ quê nhà báo tin mẹ tôi đã mất. Khi đó đất nước vẫn còn đang ngụp lặn với thiếu thốn khó khăn, vợ tôi đang mang thai đứa con đầu lòng mà mẹ tôi vẫn ước mong biết tên hay được nhìn thấy đứa cháu nội đầu tiên dù trai hay gái. Nhưng tất cả ước mơ của mẹ tôi đã là một cung đàn lỗi điệu âm vang vì tác động của thời gian và ngăn cách. Mẹ tôi mất khi đứa cháu nội, đứa con trai đầu lòng của tôi chưa chào đời. Mẹ tôi mất khi những ước mơ báo hiếu của tôi vẫn còn khiếm khuyết dở dang… để rồi cả đời tôi mang cảm giác ân hận vì không có dịp báo dưỡng người mẹ mà tôi mãi mãi kính yêu!

Mãi đến khoảng giữa thập niên 1980-1990, tôi mới có đủ điều kiện dẫn vợ con về thăm quê nhà lần đầu tiên. Căn nhà rộng rãi khang trang với vườn cây và dẫy chuồng trại chăn nuôi heo gà mà tôi đã gây dựng cho bố mẹ tôi trước khi tôi đi Nhật Bản vẫn còn đó.  Nhưng với những biến đổi của thời thế, nó lại trở về với chuồng trại trống không, nghèo túng xa xưa!

Khi vợ chồng tôi bước vào nhà. Tôi đã ngẩn ngơ, lòng buốt đau khi thấy cô em gái đã vô tình đem chiếc bình pha trà kỷ niệm ngày xưa ra rót cho vợ chồng tôi ly trà nóng. Làm sao tôi quên được cái bình trà bóng bẩy, sang trọng ngày đó?! Tôi đã mua nó với giá 400 đồng, trọn vẹn một tháng tiền lương dạy kèm của tôi của dĩ vãng 17, 18 năm về trước để làm quà tặng mẹ. Nhưng hôm nay, sau những năm tháng biền biệt rời xa bố, xa mẹ… lúc dẫn vợ con trở về thăm, tôi lại nhìn thấy nó trong một hình dạng rất tang thương với đầy những vết sứt mẻ, nhem nhuốc, cáu bẩn mầu nâu đen. Chiếc vòi đã bị vỡ bể nhiều lần, cụt cẫng như một khúc ống sành, thô kệch thò ra khỏi thân bình.  Sáu chiếc tách uống trà không còn nữa mà chỉ còn lại duy nhất một chiếc, cũng sứt mẻ, nhem nhuốc, quai tay cầm thì cụt lủn như một núm mảnh sành gắn vào thân tách. Chiếc tách duy nhất đó được xếp cùng với 3 chiếc tách khác, lớn bé khác nhau cũng cáu đen, vỡ bể nhem nhuốc như nhau. Tất cả được em gái tôi vô tình xếp trên một chiếc khay bằng gỗ thô thiển để trên mặt bàn, mời vợ chồng chúng tôi uống nước.

Lịm người nhìn cái nghèo nàn đó, cái nghèo nàn xa xưa mà tôi đã tưởng rằng nó không bao giờ có dịp trở lại với gia đình tôi nữa. Nhưng vì thời gian và thời thế đổi thay, nó đã trở lại, hiển hiện trước mắt tôi.  Hình ảnh người mẹ quá cố với những hy sinh tột cùng cho gia đình cũng trở lại với tôi, mang cho tôi cái cảm giác thẫn thờ, nhớ thương mẹ . Cuốn phim dĩ vãng với biết bao nhiêu nỗi  cực nhọc nghèo túng của gia đình ngày xưa một lần nữa được quay chậm lại trong ký ức tôi.

Vài ký ức về mẹ

Năm 1951 gia đình tôi phải rời bỏ đồng quê thuộc tỉnh Nam Định lên Hà nội để tránh nạn binh đao, thiên tai, vỡ đê, lũ lụt… kiếm đường sinh sống.

Rồi cũng vì thời thế đẩy đưa, năm 1954 chúng tôi theo chủ nhân ông di cư vào Nam. Với đồng lương của người trung sĩ trong quân đội phải nuôi 7 anh em chúng tôi đang tuổi ăn học lại kèm theo ông nội tuổi già, bệnh tật liên miên thì làm sao mà không rơi vào cảnh nghèo khó, kiếm ăn từng bữa được. Vào khoảng năm 1960, khi đó tôi đang là học sinh lớp đệ ngũ (lớp 3) trường trung học Chu Văn An Sài Gòn, mẹ tôi đã phải lên chợ Cầu Ông Lãnh mua chuối về bán lẻ trên lề đường Tô Hiến Thành.

Công việc buôn thúng bán bưng đó cũng không phải dễ dàng, luôn luôn trôi chảy. Gặp nhưng ngày giao thông trắc trở, chuối từ Long Khánh hay miền Tây về muộn thì đúng là một điều khổ ải. Để cho công việc xong trước trời tối, mẹ con chúng tôi cũng phải cong lưng cùng với người phu xe ba gác khuân những buồng chuối nặng trên dưới 10 ký lô lên xe. Ràng buộc chắc chắn rồi mau mau chở về nhà, cắt rời từng nải ra khỏi buồng chuối rồi đem vào ủ khí đá cho chuối chín trước khi đem bán cho khách. Làm xong công việc mới được rảnh rỗi ăn cơm bữa tối và chuẩn bị đi ngủ. Gặp những ngày chuối về muộn thì công việc nặng nề đó nhiều khi kéo dài đến giữa đêm mới được ăn cơm và ngơi nghỉ.

Có nhiều lần, nguồn chuối về muộn, hai mẹ con chúng tôi ngồi chờ, bụng thì đói, miệng thì khát nhưng vẫn phải chịu vì không muốn bỏ tiền ra mua đồ ăn, nước uống chỉ vì sợ tốn kém. Một hôm, nguồn chuối về quá muộn, mẹ thấy tôi uể oải, lờ đờ… biết tôi đói bụng nên kêu cho tôi một đĩa cơm tấm bì rẻ tiền của người bán rông trong chợ. Thấy mẹ không ăn mà chỉ ngồi nhìn, tôi hỏi sao mẹ không ăn, mẹ cười mà trả lời:

-Con cứ ăn đi, mẹ không đói, hơn nữa để bụng về nhà ăn cơm cho ngon miệng!

Về sau, khi lớn khôn, tôi nghĩ lại mà ân hận vì đã không hiểu được mẹ. Đĩa cơm tấm bì dù chỉ giá 5 đồng nhưng không phải là bé nhỏ với cái vốn của người bán buôn trên lề đường. Mẹ không ăn chỉ vì muốn tiết kiệm, hy sinh cho gia đình đó mà thôi.

Thông thường sau khi chất đầy chuối lên chiếc xe ba gác, ràng cột đàng hoàng trước khi cho xe chạy, trên đường chở chuối về nhà, mỗi khi xe phải dừng lại ở các giao lộ vì đèn xanh đèn đỏ hay vì kẹt xe. Mẹ con chúng tôi phải giúp người phu xe, gò lưng cùng đẩy chiếc xe cho nó có đà lăn bánh rồi hai mẹ con mới lên xe, chở nhau chầm chậm theo sau. Những năm đầu tiên thì mẹ con chúng tôi chở nhau bằng xe đạp, nhưng khi lên đại học, tôi đã có chiếc xe Suzuki M15 nên việc giúp đỡ người phu xe thuận tiện và nhàn nhã cho mẹ con chúng tôi hơn.

Tôi còn nhớ có một lần. Có lẽ lần đó mua chuối quá nhiều hay vì chiếc xe ba gác lọc cọc, trục bánh xe không trơn, nhưng cũng có thể vì gặp phải người ba gác già nua, yếu đuối. Ông ta không đủ sức để đẩy xe nhanh hơn khi chiếc xe dừng lại ở góc ngã tư Lê Văn Duyệt – Hồng Thập Tự mà đèn giao lộ đã chuyển sang màu đỏ. Cả 3 người chúng tôi còng lưng đẩy chiếc xe nhưng nó vẫn ỳ ạch, chậm chạp lăn bánh chưa ra khỏi phần giữa đường. Lúc đó từ đường Hồng Thật Tự một chiếc xe ô tô du lịch muốn quẹo trái vào đường Lê Văn Duyệt lên hướng trung tâm Sài Gòn, đã phải dừng lại giữa đường vì chiếc xe ba gác của chúng tôi đang ì ạch cản lối. Trên xe ô tô, lái xe là người đàn ông trung niên, ngồi bên cạnh có lẽ là người vợ trẻ đẹp , dáng dấp sang trọng. Dù bận đẩy xe nhưng tôi cũng nhìn thấy nét mặt bực bội, không vui của hai người vì đã làm cản trở không cho xe họ quẹo, họ phải chờ đợi.

Khi đuôi chiếc xe ba gác chở chuối của chúng tôi vừa đi qua đầu chiếc xe ô tô, người chồng lách nhẹ tay lái để băng qua bên kia vào đường Lê Văn Duyệt. Xe của họ vừa vượt qua giữa đường, người đàn bà quay hẳn mặt ra khỏi khung cửa sổ, với vẻ bực tức bà ta chửi lớn:

-Cả lũ mù hay sao mà không trông thấy đèn đỏ!

Lời chửi bới của bà ta đã làm tôi khựng lại, ngước mắt nhìn mẹ và người phu ba gác. Tôi ngạc nhiên, vì cảm giác như hai người không nghe lời tôi nói. Vẫn bình thản đẩy xe, chẳng có gì tỏ ra bực tức với lời chửi sỗ sàng của người đàn bà trên xe ô tô. Tôi nhìn mẹ và hỏi:

-Mẹ không nghe thấy người ta chửi mình mù sao?

Mẹ quay sang tôi, chẳng có tí giận tức, nói với tôi:

-Tại sao con chú ý đến cái chuyện nhỏ nhặt đó làm gì cho tội vào thân? Mau lên, trở lại lấy xe đi, mẹ chờ con bên kia đường.

Trên đường về, nghĩ đến sự bình thản của mẹ, nhớ đến nét mặt bực bội của hai vợ chồng người lái ô tô. Tôi tự hỏi ai là người khổ sở? Mẹ tôi hay vợ chồng người lái xe khi gặp một chuyện chẳng có gì cần thiết để phải bực bội, chửi mắng nhau? Đó cũng là một bài học rất nhỏ nhoi đã làm tôi suy nghĩ và nhớ mãi. Rồi cũng nhờ bài học đó trong suốt cuộc sống, tôi đã cố nén lòng dẹp bỏ tánh nóng giận, vội vàng thiếu cảm thông, mà nói những lời không đẹp với những người lao động hay cấp dưới khi họ bị lỗi lầm!

Rồi cuốn phim ký ức lại kéo tôi về với cực nhọc, liều lĩnh trong những lần chở mẹ vượt khói bom sau ngày tết Mậu Thân 1968, về miền quê mua rau muống bán kiếm lời. Tôi lại nhớ đến hai vợ chồng người bán tiệm tốt bụng đã cảm thương mà bán cho tôi bộ ly tách uống trà với giá vốn 400 đồng, đúng một tháng lương dạy học của tôi. Họ đã cho tôi có thêm một lần trong đời trả nghĩa sinh thành, trả công dưỡng dục cho mẹ tôi! Đã vậy, lúc rời xa, họ lại còn hào phóng tặng cho tôi thêm 20 đồng để ghi đậm thêm dấu ấn cảm tình cùng lời chúc cho tương lai của tôi, làm ông này, ông nọ nhưng đừng bao giờ quên họ.

Ngày nay, sau hàng chục năm trời đã qua đi, biết bao nhiêu đổi thay vì thời cuộc! Tôi cũng đã trưởng thành, bước chân của tôi đã mòn gót phong trần trên thế giới. Thời gian như cánh chim bay ngoài cửa sổ. Ngày nay, tôi đã là một ông già lụ khụ… Rồi khi có điều kiện tôi trở về thăm lại Việt Nam, nhìn lại nơi mà ngày xa xưa cực nhọc, thấm đẫm mồ hôi đó. Nhìn lại chiếc bình trà, cái tách nhem nhuốc với thời gian, Hình bóng hai vợ chồng người chủ tiệm tốt lòng đó lại  hiện lên trong trí nhớ tôi. Tôi tự hỏi những cơn giông của thời cuộc đã mang họ đi đâu? họ về đâu? Họ ra sao? Họ còn sống hay đã bất hạnh trở về với cát bụi trần gian? Tôi vẫn nhớ đến họ, đến câu nói của người chồng đã nói với tôi lúc chia tay: “ Tôi đoán sau này cậu sẽ thành công, thành ông này, ông nọ  mà biết đâu cậu lại có dịp giúp đỡ lại chúng tôi.”

(Hình minh họa: pgdphurieng.edu.vn)

Thời gian đã qua đi rất lâu rồi. Tôi trở lại Việt Nam cùng với vợ con của tôi trong một hoàn cảnh khác, hoàn toàn khác xa xưa của đất nước. Tôi trở về với âm thanh mừng vui trong lòng kẻ tha phương được nhìn lại quê nhà, tạm quên đi nỗi buồn viễn xứ. Tôi trở về với những giọt lệ buồn đau khi nhớ đến mẹ, người mẹ tuyệt vời, cả đời chỉ biết hy sinh cho chồng con, bây giờ không còn nữa, bà đã đã trở với đất đá hư vô lâu lắm rồi! Còn bộ tách uống trà sang trọng, đẹp đẽ ngày xưa đã vỡ bể gần như toàn vẹn.

Ngày nay, ngày tôi trở về, ngẫu nhiên mà nhìn thấy nó, bộ ly tách không còn tí gì cái sang trọng, bóng bẩy lúc nó còn mới ngày xưa nữa. Chính nhờ cái bóng bẩy, sang trọng đó mà mẹ tôi thường tự hào đem ra tiếp khách mấy mươi năm về trước. Tất cả đã bị thời gian làm biến đổi, tẩy rửa hết rồi.

Rồi cũng trong cuốn phim dĩ vãng hiện ra đó lại làm tôi suy tưởng về tình mẹ. Tôi nhìn thấy tôi trong một lần tôi theo phái đoàn Thụy Sĩ công tác ở Ethiopia, một quốc gia nghèo khổ đang bị nạn chết đói tung hoành ở Phi Châu. Một buổi sáng tôi và người bạn Thụy Sĩ bước vào một căn lều trong một trại tị nạn. Chúng tôi thấy một bà mẹ đã chết từ lâu, thân thể bà ta đã co cứng, nằm bên cạnh bà ta là đứa con nhỏ còm cõi giơ xương, nửa ngủ nửa thức vẫn còn ngậm vú mẹ, cặp vú lép xẹp chẩy dài như một chiếc bít tất nhăn nheo! Cảnh tượng đau thương và kinh sợ đó đã làm cho tôi và người bạn Thuỵ Sĩ thẫn thờ im lặng kèm theo vài tiếng thở dài.

Rồi cũng một lần khác, cũng tại Phi Châu, tôi và vài người bạn Thuỵ Sĩ ngồi trên chiếc xe ô tô trên đường đi đến trại tỵ nạn, qua một đường làng bên cánh rừng thưa. Chúng tôi phải dừng lại vì thoáng thấy một người nằm chết trong con rạch bên đường. Khi đến gần chúng tôi thấy một bà mẹ da đen khác cũng đã chết từ lâu. Trong vòng tay bà ta, một đứa bé gái khoảng 2 tuổi, thân hình lở loét, còm giơ xương vẫn còn say ngủ. Nhìn dạng thức người đàn bà co quắp, tất cả chúng tôi đều có cảm giác trước khi chết bà ta vẫn cố gắng ôm đứa con vào trong lòng như để chuyền cho nó hơi ấm cuối cùng từ tấm thân gầy guộc, thiếu ăn của bà ta. Hay ít ra bà ta cũng muốn lấy thân mình che chở cho đứa con với những đe dọa của thú rừng, rắn rết…

Một lần khác, sau lần tôi dẫn vợ con về Việt Nam đầu tiên đó, ký ức lại kéo tôi nhớ đến một lần xem phim tài liệu chiếu về sự tàn phá kinh hoàng của trái bom nguyên tử ở Hiroshima Nhật bản. Một bà mẹ Nhật Bản bị phỏng khắp thân thể, quần áo của bà ta bị cháy nám đứng bên lề đường, trước căn nhà của bà ta. Bà ta la hét, cầu cứu những người khác đang thất thểu đi qua, mong họ giúp để cứu cô con gái nhỏ 5 tuổi của bà. Con bé đang hét lên những tiếng thét kinh hoàng vì bị kẹt trong căn nhà sụp đổ đang cháy. Nhưng chung quanh bà ta, những người thất thểu đi qua, họ cũng là những thây ma cháy bỏng. Họ còn sống nhưng họ cũng chỉ đủ sức lê bước mong tránh xa những đám cháy, nhà sập… thì làm sao họ còn sức lực để cứu giúp người khác được! Trong trạng huống kinh hoàng đó, những lời cầu cứu vô vọng đau đớn của đứa bé trong ngọn lửa vẫn vang lên:

-Mẹ ơi con nóng quá! mẹ ơi cứu con!

Bên ngoài đường, người mẹ vẫn la hét đau thương trong vô vọng:

-Con ơi, tha lỗi cho mẹ! mẹ không làm sao cứu con được!… Con ơi, mẹ là người mẹ khốn nạn, đáng nguyền rủa nhất! Mẹ nhìn thấy con đang chết, mẹ cảm nhận được cái nóng rát, khốn khổ của con trong lửa đỏ… Nhưng mẹ làm gì cho con được đây khi mẹ cũng đang chết đến nơi rồi. Con ơi, đứa con yêu thương mà chính mẹ đã sinh ra và nuôi dưỡng ơi, hãy tha thứ cho mẹ!

Bà mẹ khóc than, la hét cho đến khi bà ta gục ngã, ngất đi dù tiếng cầu cứu của đứa con đã tắt ngấm từ lâu trong làn lửa đỏ!

Tất cả hình ảnh đó đến với tôi, hiện ra trong trí não tôi. Cho tôi thêm một lần nữa hiểu rằng tình mẹ thương con là một loại tình cảm vĩ đại đáng tôn thờ. Dù người mẹ là người da đen, da trắng hay da vàng cũng vậy mà thôi. Mãi mãi là một dạng tình cảm tự nhiên, cao cả mà người mẹ nào cũng có. Nhưng chỉ khác, ở những xã hội, những nơi mà cuộc sống bấp bênh, nghèo đói vì thiên tai vì chiến tranh… Những nơi gần gũi với bất hạnh chết chóc, đau thương thì lòng mẹ thương con lại càng được thể hiện rõ ràng và đau xót hơn.

Với suy nghĩ đó, làm tôi nhớ đến một câu nói rất ý nghĩa về tình mẫu tử. Một câu nói mà tôi thường nói với bất cứ ai khi có dịp: “Nơi trú ẩn an toàn nhất là lòng mẹ, nơi đáng để phục vụ và yêu thương nhất là tổ quốc nơi mà người ta đã sinh ra, lớn lên với những kỷ niệm buồn vui.”

Lời nói đó, ý nghĩa đó luôn luôn với tôi là chân lý.

(Zuerich, 2025)

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Sát thủ Zodiac
Zodiac được trích từ tiếng Latin –  Zodiacus – có nghĩa là chu kỳ hay vòng tròn của sinh vật. Zodiac – theo tử vi bói toán của Tây phương…
Quảng Cáo
Ăn gì bổ não?
Khi nói đến việc tăng cường sức khỏe não bộ và giảm nguy cơ mắc chứng mất trí nhớ, dầu ô liu luôn đứng đầu danh sách các loại thực phẩm…
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: