Minh Đức Hoài Trinh-khát vọng ấy đã đi qua mùa lá đổ

Viết nhân 50 năm chiến tranh kết thúc, và 46 năm Hội Văn Bút Việt Hải Ngoại
(Hình: Thanh Niên/Wikipedia.org)

Nếu buộc phải chọn ra một khuôn mặt đại diện cho Văn học Việt Nam hải ngoại, có lẽ người tôi nghĩ đến trước nhất là nữ thi sĩ Minh Đức Hoài Trinh. Sự tiêu biểu này, không hẳn vì tài năng, bút lực, mà bởi cùng với Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Nguyễn Xuân Vinh, Hoàng Anh Tuấn…bà đã đặt viên gạch đầu cho nền móng Văn học Việt nơi hải ngoại, ngay từ thập niên 50 ở thế kỷ trước. Và đặc biệt hơn nữa, ngay sau biến cố 1975, trải qua bao gian khó, Minh Đức Hoài Trinh đã sáng lập (phục hồi) Văn bút Việt Nam hải ngoại, thuộc Tổ chức Văn bút Quốc tế. Ở đó, ta có thể thấy có sự tiếp nối tư tưởng tự do sáng tạo, chống lại cường quyền, và áp bức của các văn nghệ sĩ.

Tài năng thơ văn của Minh Đức Hoài Trinh bộc lộ rất sớm. Bà viết nhiều và đủ mọi thể loại, từ thi ca, tiểu thuyết, truyện ngắn, tiểu luận cho đến kịch bản sân khấu, phim truyện, cũng như báo chí. Ở mảng nào bà cũng mang lại nhiều cảm xúc cho người đọc, người xem. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ đi sâu vào chân dung Minh Đức Hoài Trinh từ góc nhìn thi ca. Bởi, dường như thi ca cũng đã hội đủ tính đặc trưng, với nét tài hoa độc đáo Minh Đức Hoài Trinh. Và nó là thể loại quan trọng nhất để làm nên chân dung Minh Đức Hoài Trinh. Ở đó, ngoài đớn đau, với hình ảnh bi ai tình ái, ta còn cảm được hồn thơ về mẹ, cùng tiếng khóc cho quê hương của Minh Đức Hoài Trinh. Bất hạnh, và đau đớn là vậy: “Ngoài gió siết run từng cơn lá đổ”, nhưng khát vọng yêu, nghị lực sống Minh Đức Hoài Trinh đã vượt qua những mùa lá đổ ấy.

Nhà thơ Minh Đức Hoài Trinh tên họ đầy đủ là Võ Thị Hoài Trinh, sinh năm 1930 tại Huế, trong một gia đình có cha là Tổng đốc Quảng Nam, ông nội là Thượng thư bộ lễ dưới Triều đình nhà Nguyễn. Do vậy, bà được học hành, đào tạo đến nơi đến chốn, từ trong cho đến ngoài nước (Paris). Minh Đức Hoài Trinh đi nhiều, khắp các châu lục, tham gia nhiều hoạt động xã hội, báo chí. Do vậy, bà có vốn sống thật phong phú. Bà mất tại Cali vào năm 2017 để lại bao tiếc nuối cho những người quan tâm và yêu mến văn học.

*Tình yêu đổ vỡ, với sự ám ảnh đến khôn cùng.

Đã đọc khá nhiều thơ tình yêu đôi lứa, kể từ khi thơ mới, song đến nay dường như, chỉ có Đinh Hùng và Minh Đức Hoài Trinh cho tôi chung một cảm giác hoang lạnh. Ở đó quan niệm, cũng như biểu hiện của cái đẹp trong thi ca của nhà thơ hoàn toàn thay đổi. Lấy cái chết, tha ma bia mộ làm đối tượng thẩm mĩ, giãi bày cảm xúc. Thật vậy, nếu Đinh Hùng đã đi vào hầm mộ sâu: ”Nằm bên đất lạnh chắc em sầu?/ Thu ơi đánh thức hồn ma dậy/ Ta muốn vào thăm nắm mộ sâu” thì Minh Đức Hoài Trinh mong được tìm đến nơi của sự chết. Sự so sánh (ngầm) ấy, cho người đọc thấy nỗi đau và giá trị tận cùng của tình yêu. Và có lẽ, lối nói với hình ảnh ẩn dụ độc đáo này, chỉ có duy nhất Minh Đức Hoài Trinh dám liên tưởng, đủ can đảm viết ra mà thôi: “Chết đi anh cho em được ngồi bên mộ/ Cho nước mắt hồng chảy thấm xuống thịt xương/ Xin hãy chết đi trong một chiều bão tố/ Cho suốt đời vũ trụ khoác thê lương”. Trong một xã hội đảo điên ấy, với Minh Đức Hoài Trinh tình yêu là tuyệt lộ: “Anh còn sống là mình còn xa cách”. Cho nên, tâm hồn u uẩn, lời thơ Minh Đức Hoài Trinh sắc lạnh, dữ dội, song đắm đuối đến khôn cùng, làm cho người đọc luôn phải chờn chờn, rợn rợn:

“Nếu anh chết em sẽ ở gần anh mãi

Mỗi chiều về sẽ đốt nén hương xanh

Nghĩa trang tím bước hoàng hôn chậm rãi

Em gục đầu và sẽ gọi tên anh.”  (Tình chúng mình sẽ được vẽ lên tranh)

Dứt khoát, và mạnh mẽ là vậy, nhưng dường như trong tâm hồn Minh Đức Hoài Trinh có sự mẫu thuẫn. Bởi, nếu ở “Tình chúng mình sẽ được vẽ lên tranh” với tâm trạng cầu mong về sự chết, thì đến “Đừng bỏ em một mình” lời thơ Minh Đức Hoài Trinh như lời thỉnh cầu đừng rời xa, trong sự cô đơn sợ hãi. Có lẽ, chính sự ám ảnh, mâu thuẫn nội tâm đó đã cho Minh Đức Hoài Trinh viết nên “Đừng bỏ em một mình”. Một bài thơ ngũ ngôn đánh đúng vào tâm trạng của nhạc sĩ Phạm Duy. Sự rung động ấy, giúp Phạm Duy phổ thành bản nhạc cùng tên, sắc lạnh, nghe sởn cả tóc gáy. Có thể nói, “Đừng bỏ em một mình” có lời thơ rờn rợn, và u hoài nhất mà tôi đã được đọc. Và lời khẩn cầu ấy, làm cho tôi thật khó phân định: đến với người tình, hay tiếng vọng lên bất lực nhỏ bé của con người trước quy luật thiên nhiên, vũ trụ rộng lớn kia: “Đừng bỏ em một mình/ Biển đêm vời vợi quá/ Bước chân đời nghiêng ngả/ Vũ trụ vàng thênh thênh”. Để rồi tiếng búa đóng vào đinh khép lại hành trình của kiếp người, hay chính lời độc thoại của nhà thơ cho mấy ngàn năm sau nữa: “Đừng bỏ em một mình/ Bắt em nghe tiếng búa/ Tiếng búa nện vào đinh/ Hoà trong tiếng u minh/ Đừng bỏ em một mình/ Mấy ngàn năm sau nữa/ Ai mái tóc còn xinh”. Đọc những câu thơ này của Minh Đức Hoài Trinh làm tôi nhớ đến “Dấu hỏi vây quanh trọn kiếp người” của Vũ Hoàng Chương, với những câu hỏi, trả lời luẩn quẩn, không bao giờ trọn vẹn cho một kiếp người: “Chiều nay một dấu than buông dứt/ Đinh đóng vào săng tiếng trả lời.”. Bởi vậy, dường như Minh Đức Hoài Trinh đến gần với nơi cửa Phật, tìm lời giải đáp và giải thoát linh hồn chăng? Lạnh lẽo, tối tăm là vậy, song ta thấy, lời thơ ấy vẫn toát lên hình ảnh nhẹ nhàng, thanh thản đến vô cùng:

“Đừng bỏ em một mình

Khi trăng về lạnh lẽo

Khi chuông chùa u minh

Chậm rãi tiếng cầu kinh”

Tình yêu trắc trở là nỗi đắng cay, day dứt đi qua những năm tháng đầu đời Minh Đức Hoài Trinh. Nó như một vết thương không bao giờ thành sẹo trong lòng thi sĩ. Bởi vậy, sự chuyển biến nội tâm: từ nguyện cầu, cho đến lời khẩn cầu, song tâm hồn Minh Đức Hoài Trinh vẫn: “Rượu yêu nồng cay đắng/ Sao cạn mình em thôi”. Sự bất hạnh, và cô đơn ấy đủ cho thi sĩ cô lại thành: “Kiếp Nào Có Yêu Nhau”. Một bài thơ, hay một câu hỏi tu từ, không lời đáp trong nỗi buồn tuyệt vọng. Tôi chưa thể đọc hết thơ Minh Đức Hoài Trinh, nhưng có thể nói, bài thơ tình ngũ ngôn nào của bà cũng hay, giàu nhạc tính. Vì vậy, ngay sau khi đọc, Phạm Duy đã tóm gọn được hồn vía“Kiếp Nào Có Yêu Nhau” rồi chuyển thành bản nhạc cùng tên, nghe thật tha thiết, và xót xa. “Kiếp Nào Có Yêu Nhau” được viết cách nay có lẽ đã trên (dưới) bảy chục năm, song đọc ta vẫn thấy từ ngữ, hình ảnh lời thơ mới lạ. Và trích đoạn lời thơ tự sự, với những hình ảnh (ẩn dụ) đẹp, buồn xót xa dưới đây, cho ta thấy rõ, tài năng thơ ngũ ngôn của Minh Đức Hoài Trinh:

“Anh đừng nhìn em nữa

Hoa xanh đã phai rồi

Còn nhìn em chi nữa

Xót lòng nhau mà thôi

 

Người đã quên ta rồi

Quên ta rồi hẳn chứ

Trăng mùa thu gãy đôi

Chim nào bay về xứ”

Có thể nói, không có sự đổ vỡ tình yêu, với sự ám ảnh đến khôn cùng đó, chắc chắn Minh Đức Hoài Trinh không thể viết được những bài thơ tình hay đến vậy. Nó là mảng sáng tạo quan trọng nhất làm nên sự nghiệp Minh Đức Hoài Trinh. Tuy sinh trưởng trong một gia đình gia giáo quan lại, song hồn thơ Minh Đức Hoài Trinh luôn quẫy đạp vượt ra khỏi ràng buộc lễ giáo ấy. Và chỉ có Minh Đức Hoài Trinh mới cho ta cảm nhận hết được những khoảnh khắc vĩnh cửu của tình yêu.

*Hồn thơ về mẹ.

Sống và làm việc ở châu Âu đã rất lâu rồi, nên tôi hiểu, đồng cảm với diễn biến tình cảm của một người (gần) cả cuộc đời xa tổ quốc như Minh Đức Hoài Trinh dành cho mẹ. Có thể nói. viết về mẹ mỗi văn nhân, thi sĩ đều có những phương thức biểu cảm khác nhau. Với Minh Đức Hoài Trinh, những năm tháng dài như vậy, bà thường mượn cảnh vật thiên nhiên để bộc lộ nỗi cô đơn và nhớ thương ấy. Và Hỏi Mẹ là một bài thơ thất ngôn điển hình cho hình thức nghệ thuật này của Minh Đức Hoài Trinh: “Mẹ ở phương nào chiều hôm qua/ Trăng thương nhoà nhạt dải Ngân Hà/ Mùa thu lá đỏ như mầu lửa/ Ai có nghe tình ai thiết tha “. Ngày mẹ mất, có tiếng khóc trong thơ Minh Đức Hoài Trinh, hay gió bấc rít từng cơn trong lòng người thi sĩ? Khóc Mẹ, bài thơ tự sự được Minh Đức Hoài Trinh viết trong hoàn cảnh, tâm trạng như vậy. Vẫn biện pháp so sánh ẩn dụ, mượn thiên nhiên (gió bấc), nhà thơ nói về nỗi đau (mất mẹ) này. Lời thơ tuy giản dị, song hình ảnh lạnh lẽo, cô đơn hiện lên một cách chân thực, làm ai cũng phải thấy xót xa:

“Dưới mộ sâu lạnh lắm

Một mình mẹ cô đơn

Ngày me chết con xa me muôn dặm

Ngày đưa me gió bấc rít từng cơn” (Khóc Mẹ)

Đã đọc rất nhiều, nhưng tôi thấy, không ai đưa vào trong thơ nhiều hình ảnh, từ ngữ được cho là tối kỵ đối với thơ ca như Minh Đức Hoài Trinh: tha ma, nghĩa địa với những quan tài búa nện đinh… Bởi vậy, thơ của bà luôn gieo vào hồn người đọc sự ảm ảnh, song cũng đưa đến nhiều điều thú vị. Và có lẽ về nỗi đau, rất ít người viết mộc mạc mà sâu sắc được như Minh Đức Hoài Trinh. Thật vậy, bởi những chiếc đinh kia đóng sâu vào quan tài của mẹ, hay ghim sâu vào chính tâm hồn Minh Đức Hoài Trinh, với nỗi đau tận cùng:

“Hồn thân yêu ơi,

Trong quan tài chật chội

Có đau chăng khi búa nện đinh vang

Có nghe chăng đây lời kinh sám hối

Giọng ai buồn cắt đoạn nẻo trần gian”. (Khóc mẹ)

Có thể nói, Khóc Mẹ là bài thơ không chỉ viết về mẹ xúc động nhất của Minh Đức Hoài Trinh, mà còn là một trong những tác phẩm hay nhất của nền Văn học Việt Nam. Với những từ ngữ tưởng chừng rất cũ, nhưng bằng tài năng, trí tưởng tượng của mình, Minh Đức Hoài Trinh vẽ nên bức tranh có hình ảnh rất mới, mang một ý nghĩa hoàn toàn khác lạ, sâu sắc hơn: “Bình xác khô cằn cỗi/ Cắm bông linh hồn tươi”. Bới vậy, tôi nghĩ, tiếng khóc Minh Đức Hoài Trinh không hẳn riêng về mẹ, mà còn mang mang nỗi đau trần thế, dưới cái nhìn chân thực của nhà thơ:

“Thượng Đế ơi, đường xuống mồ u tối

Xác còn đây, hồn đã tận muôn nơi

Bẽ bàng chưa, kẻ sống

Ngơ ngác bốn phương trời

Là cõi thực hay là cơn ác mộng

Vành khăn tang ướt đẫm lệ còn rơi”. (Khóc mẹ)

Không chỉ có tiếng kêu Thượng Đế, mà hồn thơ Minh Đức Hoài Trinh dường như đang đến gần với giáo lý Nhà Phật. Triết lý sống ấy cho Minh Đức Hoài Trinh viết nên: “Mẹ Bảo Ta Đừng Nhìn Qua Cửa Sổ”. Một bài thơ, với tôi hay nhất trong sự nghiệp sáng tạo (thi ca) của bà. Ở đó, Minh Đức Hoài Trinh mượn lời của mẹ như thể răn mình và răn đời. Mỗi khổ thơ mang trạng thái tâm lý khác nhau, có thể đứng độc lập, như một bài bát ngôn tứ tuyệt. Đoạn trích dưới đây vẫn từ ngữ gần gũi, giản dị, song mang đến cho người đọc những hình ảnh sống động, mới lạ và rất sâu sắc. Âu cũng là tài năng so sánh, liên tưởng của nhà thơ vậy:

“Mẹ khuyên ta đừng nhìn qua cửa sổ

Sau những đêm quằn quại ngủ không mơ

Ngoài gió siết run từng cơn lá đổ

Hãy xuống hàng, chấm dứt một bài thơ”.

Gần như cả cuộc đời sống xa tổ quốc, do vậy nỗi nhớ thương mẹ, và quê hương luôn thường trực trong lòng Minh Đức Hoài Trinh. Nỗi niềm ấy, buộc bà phải gửi vào những trang thơ, nhằm xoa dịu nỗi đau. Nhìn lại văn học sử, dường như ít có nhà thơ viết nhiều về mẹ như bà. Từ tình yêu đó, cho Minh Đức Hoài Trinh đủ can đảm đi sâu vào thực trạng xã hội, và cảm thông trước nỗi đau của đất nước, con người.

*Tiếng khóc cho quê hương.

Ngay từ thuở niên thiếu Minh Đức Hoài Trinh đã có ý thức xã hội. Bà theo kháng chiến, rồi trở về thành, và đi du học. Sự thất vọng ấy càng làm cho giọng thơ bà trầm buồn, tha thiết: “Ai trở về xứ Việt/ Thăm giùm ta người ấy ở trong tù/ Cho ta gửi một mảnh trời xanh biếc/ Thay giùm ai mầu trời ngục âm u”. Vâng, đó là bài thơ Ai Trở Về Xứ Việt, được Minh Đức Hoài Trinh viết năm 1962, tại Paris. Bà đã chia sẻ nỗi đau, gửi lời cảm thông đến bạn bè ở nơi quê nhà, trong bầu không khí sục sôi của phong trào Phật giáo. Bài thơ được nhạc sĩ Phan Văn Hưng phổ nhạc và được lưu hành rộng rãi. Lời thơ đánh đúng vào hoàn cảnh, tâm lý các bác tị nạn, thuyền nhân hay cán binh tù cải tạo, làm cho nhiều người tưởng bài thơ được viết sau 1975. Bởi vậy, ở trong nước các bác cũng bị chạm nọc, đưa: Ai Trở Về Xứ Việt vào danh sách đen (cấm).  Có thể nói, đây là một trong những bài thơ viết về thế sự xã hội hay và cảm động nhất mà tôi đã được đọc từ trước đến nay:

“Ai trở về xứ Việt

Nhắn giùm ta người ấy ở trong tù

Nghe đâu đây vang giọng hờn rên siết

Dài lắm không?… Đằng đẵng mấy mùa thu…

Người bạn tù ơi, ta không quên đâu

Nhớ hôm xưa nhìn đôi tay cùm xích

Hàng song thưa chia cách vạn tình ngâu

Ai tra tấn nghe lòng ai kim chích…”

Cùng thế hệ, có lẽ không có nữ nhà văn nào quan tâm, và viết nhiều về thế sự xã hội như Minh Đức Hoài Trinh. Bất kể sự kiện nào, và ở đâu, dù là Cộng Hòa, hay Cộng Sản, bà cũng đưa vào trang viết, với ngòi bút công tâm, luôn đứng về lẽ phải, và những người bần cùng. Xuất thân từ nhà báo, phóng viên chiến trường từ châu Phi, Trung Đông cho đến ᴄhiến trường Việt Nam, nên hơn ai hết Minh Đức Hoài Trinh chứng kiến cái bi thương, và con đường dẫn đến cái chết của chiến tranh: “Quê hương mình/ Đường Bắc Nam thăm thẳm/ Từng đoàn quân chen chúc tới tha ma.” (Lời ca của đất). Hiện thực ấy, đã cho Minh Đức Hoài Trinh vẽ nên bức tranh sặc mùi tử khí. Với sự tưởng tượng, và tài năng liên tưởng của mình, Minh Đức Hoài Trinh đã làm cho người đọc phải rùng mình, sởn gáy:

“Em sợ lắm

Mùi hôi tanh của màu đen, máu chết

Từ mình anh rịn thấm xuống thân em

Trời ôi, này

Sao xác anh bê bết

Lấy đất bùn thay nệm ấm chăn êm” (Lời ca của đất).

Hận thù, chết chóc là vậy, song ở đó vẫn thấy hiện lên khát vọng sống, khát vọng yêu của con người. Khát vọng ấy, dưới ngòi bút nhân bản của người thi sĩ, nhà báo chiến trường Minh Đức Hoài Trinh, dường như làm dịu đi một chút nóng bỏng nơi chiến trường chăng? Thật vậy, con đường hận thù, tối tăm ấy, đã được nhà thơ mở ra bằng cánh cửa của tình yêu thương:

“Đêm mờ hơi sương

Đi đâu anh, đi đâu

Xin đừng đi nữa

Đỗ lại hôm nay, cởi súng buông gươm

Tội nghiệp em

Ba mươi năm khói lửa

Mải hận thù quên nói chuyện yêu đương.”

Tôi không rõ, Quê Nhà được sáng tác vào thời gian nào, song có thể nói, đây là bài thơ có hình ảnh và lời thơ rất đẹp của Minh Đức Hoài Trinh. Ở đó, có những hoài niệm về tuổi thơ nhẹ nhàng, và thân mật: “Trở về thành phố của màu rêu tuổi nhỏ/ vẫn còn nghe trong gió/ bầy chim sẻ trên nóc chuông nhà thờ/ gọi tên rất khẽ/ hoài trinh”. Tình yêu đầu đời chợt trở về, khi chân bước trên con đường cũ, làm nhà thơ buồn tênh, trống vắng, bởi phố thênh thang mà thiếu một môi cười: “kỷ niệm xưa thức dậy dưới bàn chân/ khiến em như trượt ngã/ tình thơ dại ùa vào trong mắt/ buồn tênh”. Và thời gian làm cho Minh Đức Hoài Trinh tĩnh tâm, hồn thơ sâu lắng hơn. Thật vậy, nếu đặt Quê Nhà cạnh những Kiếp Nào Có Yêu Nhau, Đừng Bỏ Em Một Mình…có lẽ, không ai nghĩ cùng một tác giả. Bởi, giọng điệu, phương thức nghệ thuật hoàn toàn khác nhau. Và đoạn thơ kết trong Quê Nhà dưới đây không chỉ cho ta thấy sự khác biệt đó, mà còn chứng minh thêm tài năng sử dụng từ ngữ hình ảnh ẩn dụ (biện pháp tu từ), mượn cảnh vật thiên nhiên bộc lộ cảm xúc của Minh Đức Hoài Trinh:

“vẫn lối đi quen hò hẹn dẫn nhau về

từng có lúc mười ngón tay lạnh cóng

hoa cúc vàng ve vuốt những cơn mê

ngày tháng đi qua

từng ngày khôn lớn

vẫn một màu rêu trên mái ngói chưa nhoà

một mình em đi, một mình em gọi.”

Là một nhà thơ đa tài, mạnh mẽ, can đảm đi đến tận cùng con chữ, bởi vậy ngòi bút Minh Đức Hoài Trinh đem đến nhiều cảm xúc cho người đọc, người nghe. Và cả cuộc đời hoạt động không mệt mỏi, Minh Đức Hoài Trinh đã đạt được nhiều thành công trên các lãnh vực văn học và đời sống xã hội. Ngay từ sau biến cố 1975, từ Paris bà đứng ra thành lập Hội văn bút Việt Nam hải ngoại, thuộc Văn bút Quốc Tế để đấu tranh cho tự do, và cho các văn nghệ sĩ bị cầm tù. Cuộc đời, cũng như thơ văn Minh Đức Hoài Trinh là tấm gương sáng soi rọi cho các thế hệ mai sau. Và tôi nghĩ, với bài viết này, chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Bởi, cuộc đời, cũng như sự nghiệp sáng tạo của Minh Đức Hoài Trinh dày, và đồ sộ, không thể gói gọn trong một vài bài viết, mà cần phải có cả một công trình nghiên cứu…

(Leipzig, Tháng Ba 2025)

Share:

Ý kiến độc giả
Quảng Cáo

Có thể bạn chưa đọc

Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Quảng Cáo
Share trang này:
Facebook
Twitter
Telegram
WhatsApp
LinkedIn
Email
Kênh Saigon Nhỏ: