Sáng đến trường V. K. nghe suốt hai giờ về thế nào là bản nhạc hay của linh mục Tiến Dũng. Thầy giảng rất hay, lúc về em đi theo thầy để xin ý kiến về loại nhạc dịch bây giờ.
Đúng, thầy cũng bất đồng với tác giả làm em thích thú, thầy còn hứa sẽ giới thiệu em và nhỏ Liêm cho nghệ sĩ Bích-Thuận để học ngâm thơ. Thích quá, tha hồ mà ngâm nhá. Hai đứa mơ sau này có mái nhà, có vườn hoa em sẽ bày đàn tranh ra đấy trong đêm trăng sáng, để ngâm thơ cho chàng nghe thì tuyệt quá.
Vào hội quán, Liêm vẫn cứ nhí nhảnh vòi vĩnh anh bạn đưa hai đứa đi ăn bò bía, vì nó vẫn được nuông chìu như vậy. Em chả thèm, cứ để nó làm chi thì làm vì em còn giờ văn học chữ Nôm của thầy Sâm nữa mà.
Thanh-Liêm học cùng trường V. K. mà em chả biết, tình cờ gặp nhau trong sân trường hai đứa vui mừng vô cùng, vì học chung từ thời trung học T.-V. Lúc ấy Liêm là cô bé khép kín, khi nói chuyện nó hay nhìn xuống đất như tìm chữ và ý, giọng nói khẽ khàng, cẩn thận, chậm rãi như nhà hiền triết. Mà thật, nó giỏi Việt văn nên các năm ấy Liêm và Cẩm Anh thay nhau giữ ghế trưởng ban báo chí của lớp. Đến khi hai đứa qua ban C rồi, em ở lại ban A thì các bạn bầu em thay vào việc ấy.
Thế nên bẵng đi vài năm không gặp lại, Liêm thay đổi rất nhiều khiến em ngạc nhiên và thích thú. Nó đã lột xác, nhanh nhẹn, linh động và nghịch ngợm rất có duyên và theo ban triết là đúng với mẫu người của nó. Điều quan trọng là cô nàng sinh hoạt trong nhóm đại diện V. K. rất có uy thế và lúc nào cũng bận rộn.
Gặp lại em, nó mừng lắm vì giờ chỉ còn hai đứa là bạn cũ cùng trường lớp với nhau. Vài tuần sau, có một chiều đi dạy về em ghé nhà Liêm, lâu không gặp hai đứa nói đủ thứ chuyện. Nó bảo tối nay có buổi thảo luận về thơ Bàng-bá-Lân ở Hội Việt-Mỹ mà nó không muốn đi, vì còn chờ Tân, người yêu của nó. Nhưng ăn cơm tối xong gần 8 giờ, em bỗng muốn đi nghe thơ, bèn mặc đồ phóng qua nhà Liêm rủ nó đi. Đã sợ trễ mà nó còn ỡm ờ nhìn ngắm em mãi, phát sốt ruột. Đến nơi, đáng tiếc bà Hồ-Điệp đã ngâm thơ mất rồi, dáng ngồi của bà thật đẹp, đúng thật là người thơ và tay đàn tranh già cội tuyệt hay. Không khí trang trọng và như nín thở – nghe – cảm nhận.
Ông Bàng-Bá-Lân tuổi trung niên, có giọng Hà-Nội ấm và truyền cảm, ngâm nga rất có hồn, nhưng không hiểu sao nhìn ông,em không mấy tin tưởng. Mà thật, ông ta không có dũng khí chút nào, em bỗng nản quá khi thấy rõ điều này: Trí thức chơi nhau đó sao? Vì cuộc nói chuyện về thơ văn giữa ông và ông Nguyễn-Hữu-Lương là thầy dạy môn Hán của Liêm. Ông Lương được dạy trường đ. h. V. K dù chỉ là học-giả vì ông không có bằng cấp, nhưng có thực tài. Ông không đồng ý với Bàng-Bá-Lân đã kết luận về hai câu thơ của Benda Jandie là không trung thực. Cả hai cãi nhau mà ông Lân thắng thế nhờ la to át giọng và khinh miệt đối phương, ông ta rất nóng nảy và bất lịch sự kéo số đông về mình.
Ngồi xem, bọn em thương thầy Lương mặt dần xám vì tức. Có cái giận nào bằng bị hạ giữa đám đông là tai mắt văn thơ nghệ sĩ Sài-Gòn không? Tủi hổ lắm vì lý mình đúng. Đáng trách một phần là “tụi khỉ” ngồi nghe không ý thức gì cả, thấy ai nói giỏi nghe xuôi là cứ vỗ tay hùa theo liên tiếp. Thấy vậy, Hồ-Điệp bèn cứu nguy ngâm bài thơ “Một mùa đông” của Lưu-Trọng-Lư. Bà ngâm tuyệt quá – em lịm người trong lời thơ não nùng, trong tiếng đàn trầm êm, dù rằng các bài thơ thời tiền chiến này lũ nữ sinh bọn em thuộc nằm lòng từ ngày mới lớn.
Em là gái trong khung cửa.
anh là mây bốn phương trời.
Anh theo cánh gió chơi vơi
em vẫn nằm trong nhung lụa
em chỉ là người em gái thôi…
Ôi! em lặng chìm – em rưng rưng… có phải chính em cũng là gái trong song cửa và anh là mây bốn phương trời không?
Tuyệt quá, em càng nghe càng lịm dần sung sướng-buồn buồn-nhớ nhung. Có đi nghe Hồ-Điệp ngâm em mới thấy chất thơ có quá nhiều quyến rũ. Vậy mà ngày mới lớn em chỉ mê văn, bây giờ những năm gần đây em mới để ý đến thơ. Cám ơn Hồ-Điệp, người đàn bà đã đem bao êm đềm dịu ngọt cho cuộc đời.
Hồ-Điệp cũng xoa dịu Bàng-Bá-Lân bằng bài thơ “Ngùi trông về Bắc” của ông, nhưng nếu so sánh với thơ của Lưu-Trọng-Lư thì thua xa:
Dừng bước nơi đây lòng ngổn ngang,
ngùi trông về Bắc nhớ tre làng
nhớ cây đa cỗi bên chùa vắng
nhớ mảnh ao bèo gió lạnh sang
nhớ giải đê cao lũ mục đồng
..cha còn tát nước trong khe
anh bừa chị cấy ngoài kia…à ời…
Và sau đó, nhiều dân tai mắt thơ văn lên tiếng như Vương-Đình-Thợ, đầu bạc trắng như tiên ông và ông ra vẻ mộc mạc khiêm nhường, bảo:
-Nàng thơ đang lên đường là nàng chưa tới-nàng chưa tới nghĩa là ta chưa có thơ.
Câu của Benda Jandie đã bị mổ xẻ tận tình. B. B. Lân phải xuất mồ hôi khi bà thi sỹ Trùng Quan chỉ nói một câu:
-Nãy giờ ta nói chuyện có là thơ hay không?
Đau quá, B. Bá Lân phải cầu cứu cụ Tam-Lang trả lời thật xuất sắc:
-Định nghĩa thơ là gì?
và Vũ hoàng Chương đọc bài “Mười năm sầu thảm” của Hàn-Mặc-Tử:
Nghe gió là ôm ngang lấy gió
chừng như trong đó có hương yêu
… nhớ hàm răng, nhớ hàm răng
ngày nào đó vẫn khăng khít cười
Và cuối cùng là ông Đặng-Đức-Hiệp kết luận:
-Thơ là thơ, không thơ cũng là thơ.
Tối ấy, hai đứa trở về nhà hơn mười giờ, nhìn những cặp vợ chồng già dắt nhau đi nghe thơ, thật đẹp. Em bảo Liêm:
-Đây cũng là thơ mầy ạ.
Hai đứa cười, thấy hạnh phúc của tuổi trẻ mình mà quý thương vô cùng.
Nhưng đêm ấy em cũng nản, không học được gì ngoài ở điều đã học là: Tuyệt vọng !!

Chiến tranh
Mấy tháng nay chiến trường sôi động, không khí thành phố và trường Văn Khoa cũng căng thẳng. Hình như mọi người đều nín thở như chờ một ngòi thuốc nổ.
Buổi sáng em đạp xe mini ra ngõ đã thấy lính đứng gác nhiều, đâm sợ. Đến ngã tư chỗ trạm xe bus thấy Liêm mặc áo dài tím than, quần trắng, hài tím đứng vẫy em. Hai đứa mình hôm nay ăn mặc thơ mộng thật: em thì áo lụa Hà-đông, quần trắng thướt tha.
Đèo nhau đến trường, leo mãi lên lầu ba để vào lớp, mệt bắt chít. Hôm nay học thầy Trị dạy triết môn siêu-luận-lý, em thích học triết ké với lớp Liêm. Thầy người Huế, tuổi ngoài 30 và rất lịch sự thắt cravate sọc to bản, đúng mode trông hay hay. Đôi mắt thầy rất nhạt màu như Tây và đẹp nhất là lúc thầy nhíu mày. Lối giảng bài của thầy khá lạ, cũng như lối đốt thuốc thật quyến rũ.
Bài thầy giảng về Siêu-luận-lý nên em không thể nào hiểu nổi, ngay chính Liêm cũng vậy. Thầy cũng biết rõ như thế, như hôm qua có giờ siêu- hình-học, may là thầy nghỉ dạy, nếu không chắc mệt cả hai tai luôn.
Hết giờ xuống sân trường Liêm gặp hai anh bạn, cả bọn đang nói chuyện bỗng anh Toàn đến bảo Liêm đem một triệu đồng đi lo chuyện tổ chức cứu trợ 40 gia đình nạn nhân chiến cuộc Bình-Long,họ đang đến trại tỵ nạn ở Thủ-Đức. Anh Toàn nói hơi khó nghe vì sứt môi,Liêm đòi vào hội quán Văn uống cafe, anh ừ.
Hai đứa em vào gặp vài đứa bạn ở đấy, thấy Tân em chào, Tân cười. Toàn mua mấy chiếc ô mai cho hai đứa, nhưng anh hấp tấp vì không có thì giờ, nên hẹn nhau sẽ đến café “lá- me” (Hân) ở Đa Kao. Em chưa đi café với bạn lần nào. Bây giờ có Liêm nên em không e ngại nữa. Đến đấy Liêm vừa gọi hai ly café sữa đá thì anh Tự đi xe bus đến. Em đang còn lạ, anh cười hỏi em có nhớ anh ta không ? trong nhóm bạn hôm chúng mình đi nghe nhạc Khánh Ly hát ở Dược-khoa đấy. Em cười, anh nhớ hay quá vì hôm ấy hội trường 2 Dược, đông người nóng quá em chả nhớ ai cả, vì Khánh Ly tự làm hoạt náo viên rất có duyên, bầu không khí sôi động vô cùng. Anh Tự nói thêm, cô ấy khoẻ thật, hát đến gần 30 bài mà vẫn hay và vui vô cùng.
Đang ngồi, chợt thấy một cái kén bướm từ bên bàn kia, tự dưng bay qua bàn em và ngừng trên tà áo trong lòng em với những sợi tơ đẹp vô cùng, làm Liêm và Tự cùng bảo thôi tơ đã vương rồi, làm em thẹn đỏ cả mặt. Chợt thấy Tí, bạn trai của em Hương ở ban Sử chạy đến, ngừng xe nhìn bọn này, cười. À, tên nầy mấy hôm nay lo ghê lắm rồi đấy, vì gia đình kẹt ở Đà-lạt đang bị cắt đường. Tội nghiệp. Em ngồi nói chuyện thời sự với Tí, ái ngại cho tình cảnh chung của đất nước. Nhóm bạn Liêm ra về, hẹn một chút sẽ cho biết thêm về vụ cứu trợ của nó. Em cũng về, duy có Liêm ở lại cùng với nhóm bạn khác ở hội quán Văn gặp lúc nảy ở trường, bây giờ họ cũng đến quán lá-me này nữa, hay thật ! Sao nhóm s. v. này có nhiều thì giờ ngồi tán dóc thế nhỉ ? có lẽ vì chiến tranh đang gần kề thành phố rồi. Nhưng em không có thì giờ học, kỳ thi này chắc không qua khỏi rồi, hai tháng trước em vẫn nộp đơn đóng tiền thi. Hôm ấy nhờ anh Toàn giúp nên nhanh chóng, nếu không chắc không chen nỗi với các s. v. khác đang sắp hàng rồng rắn trước văn phòng. Gặp thầy Trung đi ngang, em chào thầy ạ. Thầy cười tươi hỏi em nộp đơn thi đấy à, cố lên nhé.
Cho người yêu.
Đấy là những ngày sôi động ấy. Như giấc mơ kỳ lạ của em lúc đó.
Anh có bao giờ thấy hạt mưa từ phía dưới ngược lên trời không? Trời ơi! em đã nhìn thấy trong cơn mơ đêm qua:
Ở khung cảnh trường lớp, bạn bè cũ vui vầy. Và bỗng dưng cơn mưa đổ ào đến. Lạ lùng là hạt nước từ mặt đất dày mịt lại phun lên. Mưa cứ phun ngược lên như thế mãi.
Khi em tỉnh giấc – bàng hoàng và sợ hãi. Nhớ đến người yêu- em khóc như mơ. Những biến cố trọng đại ngửa nghiêng lịch sử. Nỗi buồn đau cũng ví như nỗi sung sướng – ngang nhau – gần như thế. Để có lúc em lo sợ cuống quýt – em khẩn thiết nguyện cầu. Và có những lúc em bình tâm chìm lặng, dững dưng với tất cả… có gì đâu, tất cả rồi sẽ qua – biết đâu đó lại là một cách để giải thoát kiếp đọa đày nầy. Vì tất cả đều phi lý quá – em chẳng làm gì hết – từ nhỏ và lớn lên ở đất nước này- trong thành phố này, em chưa kịp “sống”- chưa kịp phạm tội. Vậy mà cùng với mọi người em đã run lên vì sợ hãi – em đã chết lặng vì kinh hoàng.
Nhưng này, em có biết em sợ hãi vì đâu không? Ôi, bom chưa thấy nổ, đại bác chưa thấy rơi vào thành phố này- vậy mà quê hương đây đó đã thành địa ngục rồi. Em muốn nhắm mắt lại không thèm đọc nữa, em nhất định không thèm nghe, không thèm biết những gì em trót nhớ, như người ta chạy lao ùa đến máy bay dù để chết. Em cũng không muốn nhớ người ta bắn nhau vu vơ, như người ta dẫm lên xác trẻ con.
Chuyện như thế, không còn là giấc mơ, cuống quýt sợ hãi, rồi không còn gì để sợ hãi nữa. Như gương mặt bình thản của anh từ trong cuộc chiến vẫn trở về thăm em đều đặn. Nhưng đến lần này anh bảo rồi không biết đến bao giờ về thăm em lại nữa.
Đấy chính là nỗi khoắc khoải của chúng mình. Từng đêm – từng đêm nghĩ đến thảm trạng trước mắt – nhớ đến mối hiểm họa rình rập ấy là bắt em lo nghĩ đến người yêu : Đất nước và chiến sỹ – anh và đất nước. Hai hình ảnh – hai ý thức hệ cùng ray rứt – cùng nhắc nhở – cùng cận kề tha thiết.
Như vậy đất nước có là anh không? hay anh có là đất nước không ?
***
Hôm đi thăm Thu Thuỷ, nó học Sư-phạm Quốc-gia hai năm xong ra trường, bị đổi về Sa-đéc dạy hơn một năm, giờ phải chạy về Sài Gòn. Gặp nhau hai đứa mừng vui vô cùng, em cũng gặp bà chị nó hợp “típ” với em. Vì vậy câu chuyện rất thân mật, vui vẻ. Khôi hài là chị ấy cũng trốn sở và đang may cái đai sau lưng để đai đứa bé, đề phòng lúc “họ” vào. Cả nhà Thuỷ bắt em ở lại ăn bò bía. Em ngại ba me mong nên định về, nhưng nghe chị ấy nói chuyện về tình hình đất nước hay quá, em ở lại luôn. Buồn quá, vui được phút nào đỡ phút ấy. Biết đâu ngày mai, ngày kia – tuần sau tuần nữa có còn nhau không? Trời ơi, không ngờ chúng mình cùng phải nghĩ như vậy, phù du quá đỗi- hiện sinh quá đỗi. Chợt dưng đôi lúc em thấy tiếc nuối không có người yêu bên em lúc này, trong lúc hấp hối của mọi nỗi vui – của mọi hạnh phúc.
Sinh hoạt thành phố cũng thay đổi theo thời cuộc vì chiến tranh đang kề cận, đe dọa hàng ngày, hàng giờ. Thật dị thường, bao lần em định viết mà phải buông bút vì đầu óc lại quay cuồng. Đấy không phải là sự khủng hoảng thể chất, cũng không phải là bản năng bảo tồn sự sống để chống cự, trốn chạy hay chờ đợi, mà chính là một thứ sợ hãi. Em không biết từ nơi nào nó đã ùa ập đến em , một thứ sợ hãi bình lặng. Nó len lỏi khắp châu thân – cái sợ như mở ra một vực thẳm – hư không . Vì thế những người yêu nhau đã tìm nhau để tựa nương, trong cơn lốc xã hội nhiễu loạn ghê sợ này.
Chúng mình có sợ, có lo là những bất trắc sẽ xảy ra cho người yêu mình . Nhưng vận nước nghiêng ngữa làm mình buồn – đau buồn không thể nào nguôi được. Em cảm thấy hình như có một sự thay đổi to lớn nào đó làm dân mình càng đi dần xuống hố đen – vực thẳm.
Và hai chúng mình sẽ như Graber và Elisabeth của Remarque trong “Một thời để yêu và một thời để chết” mà anh mới đưa em đọc. Nếu được như vậy, quả là sung sướng biết bao và hạnh phúc là hạnh phúc trong cơn bi đát này ??
Đến hôm dạy sử cho học trò lớp đệ tam – bài vua Quang-Trung đại phá quân Thanh, em bỗng xuất thần nói không ngừng nghĩ. Càng nói càng say, mắt rưng sầu, để bọn học trò sắp đến tuổi động viên cũng rười rượi:
-Làm sao có một Quang-Trung để thống nhất đất nước đây, các em??
***
Đầu Tháng Tư đen. Một buổi chiều Liêm đến nhà em, nó đi ngõ sau vì nhà nó cách không xa. Liêm buồn rầu vì người yêu hẹn đến bẩy năm sau mới cưới. Hai đứa đang còn nói chuyện, thì anh Kỳ trong ban đại diện trường đến tìm nó. Em chả biết chuyện gì, đang hoang mang thì Liêm đi vào nhà bảo tướng Trưởng chết rồi và nước mắt nó chảy quanh. Em kêu lên, thôi nguy rồi, vậy là Sài-Gòn sửa soạn đón v. c. vào. Liêm bỏ về lập tức, nhưng nó lại cười đau đớn.
Hình ảnh nó ngồi sau xe đạp của Kỳ như hình ảnh cô gái Huế gầy gò, ngồi sau xe đạp người yêu chạy trên phố Huế trong chuyện của Nhã-Ca, đẹp vô cùng.
Buồn – đất nước tan hoang hết rồi. Trung-Tướng Ngô-Quang-Trưởng người hùng địa đầu giới tuyến quân khu 1 đã tự sát. Còn gì hy vọng nữa đâu? Tin đen tối ấy như tiếng sét đánh ngang tai, làm sao đây nếu Sài-Gòn lâm vào vũng bùn ấy? Chết thôi.
Mấy hôm sau me đi chùa về, cũng kể chuyện gia đình tướng Trưởng trong nhóm bạn đạo của me,họ đến cúng cầu siêu cho ông. Mắt ai cũng đỏ hoe. (1)
Vậy mà bé Hà đi học về kể rằng tụi bạn nó bảo, đức mẹ Fatima nói nữa tháng sau thì v. c. sẽ vào S. G. và tàu Tây Đức sẽ mang dân mình về Đức ở. Thật bàng hoàng dù là tin của con nít, vì bây giờ ở đâu cũng bàn tán chuyện đất nước, ngay đến con nít cũng vậy. Em nghĩ bi đát quá, nếu dân mình phải bỏ nước ra đi – đi như vậy là mất nước, là mất quê hương rồi !!
Những ngày ấy đến trường, thầy chỉ nói chuyện chạy loạn, tản cư rồi thầy cho cả bọn nghỉ học vì cour siêu-hình đám s. v. quên không mang theo. Em và Liêm đạp xe đèo nhau lang thang ngoài phố. Nó đạp qua khu café Lys ở đường Phan-đình-Phùng, Hai bà Trưng xem có bạn bè kéo vào không. Đến đấy chả có mống nào cả bèn ra phố đi rong. Đường vẫn đông, nhưng khu thương xá Crystal thì dẹp bớt vài hàng , nghe động tịnh là run rồi.
Hai đứa đi lựa sách sold mà không mua. Ghé nhà Trọng không gặp, đói bụng vào ăn bánh cuốn Đình, Đakao gần đấy. Vừa ăn hai đứa vừa bàn nhau, chuyện nếu v. c. vào SG. thì sẽ không còn ăn ngon như thế này nữa đâu. Nhớ đến cảnh đau thương của dân tản cư,em thấy buồn làm sao. Nhưng hai đứa lại ăn thêm một đĩa nữa làm Liêm cười sặc sụa, em cũng cười đến đau bụng. Và chung quanh chắc mọi người đều ngạc nhiên vì thấy sao hai đứa như vui quá ? Trời ơi ! cười trong nỗi buồn mất nước, nó bảo có một gia đình định khi v. c. vào thì cả nhà sẽ cùng lên xe, lao xuống sông để chết hết.
Thế mà mới cách đây hơn nửa tháng, nó còn hy vọng bảo sang năm tao ứng cử phó chủ tịch ngoại vụ, mày làm partenaire cho tao, nếu ban đại-diện của tao đắc cử.. Em cũng đùa, nếu mày ứng cử thì bọn tao đã đám cưới rồi và sẽ dắt con theo, bỏ ba phiếu cho mày luôn nhé.
Bây giờ tất cả đều là hư vô, cả hai cười cay đắng, vì biết còn sống đến ngày ấy không? Lúc đi ngang đường Tạ-thu-Thâu nhìn tiệm bán hàng, người mẫu mặc bộ áo ấm đẹp quá làm hai đứa buộc miệng, rằng Đà Lạt không còn thì mua, mặc đi đâu? Liêm nói tức thật, nhiều khi muốn chửi thề, tao với ông Kỳ gặp nhau là bàn tán là chửi.
Nhưng rồi ăn ngon quá và no quá – tuổi trẻ vui được đôi chút – chỉ hơi buồn vì không có người yêu cùng ăn. Lúc tính tiền, họ quên tính một đĩa làm hai đứa mừng khoái chí, nhảy nhót vui thú. Ôi, hạnh phúc quá bất chợt và nhỏ bé dị thường. Đi uống nước mía gần đấy, em bảo ê! mầy xem ông Tàu kia mặt buồn sưng như cái mâm vì ế. Liêm cười sặc sụa, phun cả nước mía ra ngoài.
Hai đứa lại đèo nhau về, ngang nhà nhỏ Quý. Những khi Liêm buồn chuyện tình, thường cậy nhờ Quý bói bài mong có hy vọng nào đó chăng ? Đến nhà, nó rụt rè vì ngại, nhưng em vẫn bình tĩnh gọi Quý ra. Hình như lúc sau này em không sợ gì nữa hết, thật đĩnh đạt và tự tin ở mình vô cùng. Phải chăng gần kề nỗi sợ hãi thì con người bỗng sáng suốt bình thản ra?
Quý có lối nói chuyện thật buồn cười và vô tư, làm cả bọn vui được vài phút. Cả ba đứa lại bàn về tình hình, nó cũng lo sợ và buồn rầu vì ba nó thầu rác sở Mỹ, cả nhà nó sẽ phải ra đi . Nhưng nó lại rất can đảm và chịu hy sinh ở lại một mình vì còn người yêu. Nó hơn em là đôi khi cố quên để vui được một ngày thì đỡ buồn một ngày. Em khen nó giỏi.
Rồi hẹn nhau chủ nhật cả bọn sẽ gặp lại.
Về nhà, đường còn đông xe dù gần 8g. tối. Có phải mọi người cũng như mình? sợ ngày mai không còn nữa, phải cố sống cho trọn ngày nào hay ngày ấy.
Những ngày ấy Liên Anh, đứa bạn thân yêu từ lớp đệ thất T. V. cũng từ Đà-Nẵng chạy về S. G. Cứ cách một ngày là nó đến nhà tìm em thì thào nói chuyện. Gần ngày cuối, nó rủ đến nhà ăn bún thang của chị em nó nấu đãi. Em ở chơi với các chị em Liên Anh cả ngày thật vui vẻ, dù biết rằng bọn mình sẽ bị thay đổi. Lúc gần về nó mới tiết lộ bí mật, khuya nay cả nhà nó sẽ được anh Chí của nó bóc đi di tản qua Mỹ. Tiếc rằng nó rất đẹp nhưng chỉ có một anh bạn thôi, anh ta cũng xin đi theo. Và bạn trai của em Vân nó cũng được cho đi theo nốt. Còn em thì buồn vô cùng, vì biết mình không thể bỏ tất cả để đi theo nó, để trốn chạy ngày đen tối sắp đến này. Mẹ nó nói đùa, thế thì cháu ở lại giữ nhà hộ bác nhé!
Và rồi cả nhà nó đi hết. Đến mãi sau này em mới nhớ ra rằng mình buồn quá nên quên đưa địa chỉ nhà cho nó, vì hai đứa đến nhà nhau hằng bao năm trời mà chỉ biết tên đường, nhưng số nhà thì mù mờ. Nên hai đứa mất nhau từ đó.
Các ngày dạy ấy, em giảng bài càng hăng – nói đến say mê,còn đám trẻ thì cứ nghệch mặt ra nghe, thương thương là. Còn một buổi học nữa là thầy trò mình chia tay. Thôi hãy yêu dấu những gì mình đang có,để ngày sau chúng mình cùng chịu khổ với”họ”.
Tan buổi học, lên phòng giáo sư em gặp anh bạn và các ông đang bàn chuyện thời sự hăng quá, nghe đến thích. Một lúc sau còn lại hai người, anh ta nói cho em nghe về nỗi lo sợ vô lý và nhiều điều bất mãn trong anh ta nữa. Đa số nam giáo sư ở đây là sỹ quan biệt phái, nên họ cũng rành về quân sự và có máu nhà binh nên liều lĩnh lắm.
Mọi người xôn xao. Đường kẹt cứng. Cả thầy trò đều buồn. Lớp học rất đoàn kết và thương nhau, làm em thương chúng hơn bao giờ hết.
Các em Tâm, Oanh và Bích Hiền đưa lưu bút cho cô viết vội cho các em:
Em viết: Bây giờ là máu lửa và nước mắt – nước mắt sâu – máu chảy – máu đỏ thắm -Trong nỗi thống khổ của một dân tộc,cả thế giới đã nhìn thấy… Ngày mai – tháng sau – năm sau, biết cô và em còn gặp nhau trong cảnh này, hở em??
Viết xong em muốn bật khóc, đám nhóc mắt rơm rớm nhìn cô giáo thương yêu. Ôi! chúng ngây thơ nào hiểu được những điều rất kinh khủng sẽ xảy ra, mà cô đã cho chúng khái niệm trước như vậy.
Ngày đau buồn kinh hoàng đã đến, Liêm qua nhà em kéo nhau lên căn gác, để nhìn ra ngã tư Bình-Hòa và xa hơn là chợ Bà Chiểu và Lăng ông Lê-Văn-Duyệt, nơi đó có nhiều tiếng súng nổ ròn rã, ngoài đường thiên hạ loạn động la hét, chạy như điên dại.
Hai đứa ngồi khóc, nước mắt chan hòa… Thế là hết, chúng mình như hạt nước bị đẩy ra đại dương, biển đời khổ đau cùng cực rồi!! Còn ai cứu ai nữa được đây!
Ôi, nào ngờ đâu đến năm năm sau, chúng mình cũng đã ôm con còn quá bé bỏng, bỏ nước ra đi trong một đêm mù mịt – kinh hoàng – mà không biết mình sẽ sống hay chết!! Chỉ biết rằng mình đang lênh đênh và cần một bến đổ. Nhưng nào ai biết rằng:
-Khi chiếc tổ này vỡ rồi, thì có quả trứng nào lành lặn được?
Nên mãi đến gần nửa thế kỷ rồi, mà chúng ta vẫn hoài niệm về chiếc tổ ấm ngày xưa. Đó chỉ là một giấc mơ. Phải thế không?
***
Tin về trung tướng Ngô Quang Trưởng tự sát là do phía c. s. tung ra. Sau này đọc trong quyển “Lược Sử Q. L. V. N. C. H.” của Trần-Ngọc-Thống, Hồ-Đắc-Huân, Lê-Đình-Thuỵ thì: Ngày 13 Tháng Ba, 1975, ông hội kiến với TT Nguyễn Văn Thiệu nhận mật lệnh triệt thoái khỏi quân đoàn I. Ngày 29 Tháng Ba 1975, từ Đà-Nẵng, ông di tản theo Hải Vận Hạm Lam-Giang và Hương-Giang H. Q. Vào Cam-ranh và cập bến Bạch-Đằng vào đêm 31 Tháng Ba. Lúc ấy có các Phó Đô-đốc Chung Tấn Cang, Trung Tướng Lê-Nguyên-Khang, Chuẩn Tướng Ng-V-. Chức đưa ông về Tổng Y-Viện Cộng-Hoà dưỡng bệnh. Sáng ngày 29 Tháng Tư, 1975 tại bộ Tổng-tham-mưu ông lên trực thăng của Thiếu-Tướng Nguyễn-Cao-Kỳ bay ra biển Đông, và đáp xuống Hàng-không-mẫu-hạm Midway Hoa-Kỳ. Sau đó chuyển qua trực thăng bay sang chiến hạm Blue Ridge, Soái hạm của Tư-Lệnh-Đệ-Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ và ngày 30 Tháng Tư, 1975, ông định cư tại Springfield Virginia, Hoa Ký. Năm 2007 ông từ trần, hưởng thọ 76 tuổi.