Phú Kiết – cái tên nghe như lời chúc lành mà ông bà xưa gửi gắm vào vùng đất mới. Trước năm 1975, Phú Kiết thuộc quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường. Sau 1975, thời Cộng sản, nó thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.
Nhưng với tôi, Phú Kiết không chỉ là một địa danh hành chánh. Đó là quê nội, là má, là ba, là vườn quýt, vườn mận chín đỏ, là bến nước đục phù sa… Là tuổi thơ tôi.
Chuyện đất Phú Kiết bắt đầu từ mấy trăm năm trước, khi danh tướng Nguyễn Cửu Vân tuân lệnh triều đình nhà Nguyễn, vào khoảng năm 1705, mộ phu đào một con kinh nối liền rạch Vũng Gù (thuộc Tân An) với rạch Mỹ Tho. Công trình thủy lợi này nối thông hai dòng sông lớn miền Nam là sông Vàm Cỏ Tây và sông Tiền Giang, giúp cho việc giao thông bằng xuồng ghe thuận tiện và dẫn thủy nhập điền cho dân làm ruộng, lập vườn.
Sau này, vua Gia Long đặt tên cho con kinh ấy là Bảo Định Hà (sông Bảo Định). Hai chữ “Bảo Định” có nghĩa là “bảo vệ sự định cư,” ý nói công trình giúp người dân từ miền Thuận Hoá – vùng bún bò Huế – vào khai hoang, lập làng, sinh cơ lập nghiệp được an ổn, bền lâu. Cái tên ấy – “Bảo Định” – thiêng liêng và ý nghĩa biết bao. Vậy mà về sau, có một ông theo Cộng sản lấy bút hiệu là Bảo Định Giang. Thiệt ra phải viết là Bảo Định “Gian” không có chữ “g” mới đúng. Chớ theo Việt Cộng thì tay nào mà không… gian?
Kinh Bảo Định chảy qua Tịnh Hà, quê của ông Nguyễn Hữu Huân, Thủ khoa Huân một chí sĩ chống Pháp, bị Tây chém tại Thang Trông, chợ Phú Kiết. Kinh tiếp tục chảy qua Bến Tranh – sanh quán của thầy Lê Chí Nhơn, Tổng Giám Thị trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu năm 1966 – rồi đến Hốc Đùng (gần ngã ba Trung Lương), trổ xuống rạch Mỹ Tho trước khi đổ ra sông Tiền.
Khúc sông Mỹ Tho nầy nổi tiếng, vì một bên là vườn hoa Lạc Hồng, bên kia là Cù lao Rồng. Thời Pháp, nơi đây chúng từng bắn chết tên cướp đường sông Đơn Hùng Tín, vốn là dân gốc Cao Lãnh. Cù lao Rồng về sau được đổi tên là Cồn Tân Long. Khúc sông này từng đi vào ca dao:
“Chẻ tre bện sáo chi dày
Ngăn ngang sông Mỹ, có ngày gặp nhau.”
Ngoài Cồn Tân Long, khúc sông này còn có tứ linh: Long – Lân – Qui – Phụng. Trong đó, Cồn Phụng là nơi dựng cơ đồ của giáo chủ đạo Hòa Đồng Tôn Giáo, kỹ sư hóa học Nguyễn Thành Nam – dân Ba Lai, Bến Tre. Vì ông rất thích uống nước dừa – thứ đặc sản quê mình – nên dân gian gọi ông là ông Đạo Dừa.
Còn cái tên Phú Kiết thì sao?
“Phú” là giàu có, sung túc. “Kiết” – đồng âm với chữ cát (吉) – nghĩa là may mắn, hanh thông. Như vậy, Phú Kiết là một vùng đất được đặt tên để gửi gắm ước vọng phú quý, cát tường, nơi mà người xưa mong ước một cuộc sống yên lành, sung túc. Có thể nói, đây là một dạng tên làng mang đậm tinh thần thâm Nho, Hán Việt thời khai phá.
Trong đình làng Phú Kiết xưa kia còn lưu lại nhiều câu đối, liễn thờ với từ “Phú” trên đối, và “Kiết” dưới đối. Chẳng hạn:
“Phú hựu thôn trung thiên niên thạnh
Kiết tường an lạc bá gia hưng.”
(Giàu thêm trong làng ngàn năm thịnh
May mắn an vui trăm họ hưng)
Hay một câu khác:
“Phú nghiệp ân chiếu quang đế sắc
Kiết tường đức quản hậu tô thần.”
(Nghề nghiệp giàu sang nhờ ơn vua ban
Cát tường đạo đức làm nên tôi trung)
Ngày nay người ta quen dùng chữ “cát” như trong “cát tường, đại cát đại lợi, hung cát…”, nhưng ở một số vùng miền Nam, âm “kiết” lại được ưa chuộng hơn, nhất là trong Phật giáo. Ta có thể kể đến bài Kinh Đại Kiết Tường Thiên Nữ, mà sau này có bản dịch lại là Đại Cát Tường Thiên Nữ Chú. Vậy nên cái tên Phú Kiết là một dạng cách gọi cổ kính, có phần sâu sắc và đậm đà chất văn hóa dân gian miền Nam xưa.
Ngoài Phú Kiết, còn nơi nào mang chữ “Kiết” không?
Hiếm hoi, nhưng cũng có. Ở Sóc Trăng hiện nay vẫn còn xã Lâm Kiết, mà trước kia còn gọi là Thạnh Kiết. Tên gọi Thạnh Kiết cũng mang nghĩa tương tự: hưng thịnh và hanh thông – một cách đặt tên làng với lòng cầu chúc dân làng ấm no, yên vui.
Vùng quê nào cũng có vài câu ca dao gói tròn cái tình, cái nghĩa. Người Phú Kiết ngày xưa hay nói:
“Ai về Bến Tranh, ghé ngang Phú Kiết,
Lá tre rụng đầy, nhớ bước chân em.”
Hay:
“Chiều nghiêng bóng đổ qua sông
Thương ai má ửng má hồng chờ ai.”
Và cả những câu hát thấm đẫm tình quê
“Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua.
Phú Kiết – hai tiếng thân thương ấy không chỉ là nơi chốn trên bản đồ, mà là nơi tôi chôn nhau cắt rún. Là nơi má tôi bới tóc bằng trâm, ba tôi mặc áo trắng quần tây, thầy ký Ty Bưu điện Mỹ Tho
Tôi đi chân trần chạy dọc bờ hay ngồi xuồng ba lá trên dòng kinh Bảo Định. Là nơi tôi nghe tiếng võng ru con trưa hè buồn não ruột:
Chim chuyền nhành ớt líu lo.
Mảng sầu con bạn ốm o gầy mòn
Là tiếng heo kêu eng éc sau hè, và hình bóng nội tôi thả, kéo vó đêm tuỳ theo con nước.
Tôi xa quê đã mấy chục năm, sống tha phương nơi xứ người. Mỗi khi nhớ má, nhớ ba, tôi lại viết. Viết để giữ lại những hồi ức tưởng chừng đã lùi xa mấy chục mùa lúa chín. Viết để nhắc lòng rằng, mình đã từng có một quê hương Phú Kiết rất đỗi bình dị, đâu yêu mà vì thời cuộc tôi phải bỏ xứ mà đi!
Ba ơi! Má ơi! Hu hu!




























